Khoa học cơ bản là những ngành khoa học nghiên cứu, khám phá các quy luật tự nhiên và sáng tạo ra những tri thức mới. Một số ngành khoa học cơ bản bao gồm: Toán, Vật lý, Hóa học, Sinh học,… và một nhóm ngành trong khối khoa học trái đất như Địa lý, Địa chất, Môi trường, Khí tượng và Khí hậu, Khoa học biển. hải dương học. Các ngành này đều là lĩnh vực thiết yếu góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của đất nước.
- Trường Đại học Công nghệ và Quản lý Hữu Nghị tuyển sinh bổ sung năm 2024
- Thành phố Hà Nội yêu cầu bảo đảm tuyệt đối an toàn cho học sinh trở lại trường
- Phát động phong trào tập luyện môn bơi trong trường học
- Điểm mới trong tuyển sinh của Khoa Kỹ thuật hạ tầng và Môi trường đô thị – HAU
- Huyện Mê Linh triển khai Đề án sân khấu học đường đến 100% học sinh tiểu học
Tuy nhiên, những năm gần đây, các ngành khoa học cơ bản dần mất đi sức hấp dẫn và số lượng thí sinh đăng ký các ngành này ngày càng giảm. Điều đó tạo ra thách thức lớn cho hệ thống giáo dục trong việc duy trì và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho lĩnh vực khoa học cốt lõi này.
Bạn đang xem: Vì đâu nên nỗi ngành khoa học cơ bản mất sức hút từ bậc đại học trở lên?
Các lĩnh vực khoa học cơ bản dần mất đi sức hấp dẫn, thường bắt đầu từ cấp đại học trở lên
Trao đổi với phóng viên Tạp chí Điện tử Giáo dục Việt Nam, Giáo sư, Tiến sĩ Ngô Quốc Anh – Viện trưởng Viện Hóa học, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam nhận xét về thực trạng khoa học cơ bản hiện nay. Dần dần mất đi sức hấp dẫn bắt đầu thấy rõ nhất ở cấp độ đại học trở lên.
Giáo sư, Tiến sĩ Ngô Quốc Anh – Viện trưởng Viện Hóa học, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam. (Ảnh: website Viện Hóa học)
Theo Giáo sư, Tiến sĩ Ngô Quốc Anh, các trường THPT chuyên trên cả nước đều có lớp chuyên các môn tự nhiên. Không chỉ vậy, các cuộc thi Olympic quốc gia và quốc tế thường thu hút đông đảo học sinh giỏi tham gia, thậm chí có nhiều em còn đạt giải cao. Tuy nhiên, khi đăng ký xét tuyển vào đại học, hầu hết sinh viên thường không có nguyện vọng theo học các ngành khoa học cơ bản. Thay vào đó, sinh viên có xu hướng chọn những ngành “hot” với nhiều cơ hội rộng mở sau khi tốt nghiệp. Thực tế cho thấy, tâm lý chung của nhiều phụ huynh và học sinh thường lựa chọn ngành học dựa trên định hướng nghề nghiệp mong muốn.
“Theo tôi, nguyên nhân khiến các ngành khoa học cơ bản đang dần mất đi sức hấp dẫn là do xã hội chưa thực sự hiểu rõ tầm quan trọng của chúng và không đảm bảo việc làm, thu nhập ổn định cho sinh viên sau đại học. sự nghiệp. Vì vậy, sau một thời gian, người học nhận thấy mình lựa chọn những ngành “hot” theo xu hướng phát triển sẽ mang lại nhiều giá trị công việc và tài chính hơn.
Bởi vì, khi nền kinh tế phát triển, xã hội có những lĩnh vực mới hấp dẫn người học hơn và sự hứng thú với các ngành khoa học cơ bản sẽ giảm dần. Trong khi đó, thực tế cho thấy chính sách đãi ngộ, tiền lương, cơ hội thăng tiến và các điều kiện phát triển khác đối với người làm ngành khoa học chưa hấp dẫn bằng các ngành nghề khác”, Giáo sư, Tiến sĩ Ngô Quốc Anh bày tỏ quan điểm.
Cũng theo Viện trưởng Viện Hóa học, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, khi lựa chọn chuyên ngành, thí sinh sẽ băn khoăn liệu vị trí công việc trong chuyên ngành này có đảm bảo cuộc sống cho bản thân và gia đình hay không. . Nói cách khác, liệu chính sách đãi ngộ có đủ để giữ chân những người trẻ có khả năng cống hiến. Chỉ khi câu hỏi này được trả lời thỏa đáng, sinh viên mới yên tâm tập trung nghiên cứu và mang lại giá trị cho sự nghiệp khoa học của mình.
Xem thêm : “Học bổng lãnh đạo EQuest xuất sắc”: Đầu tư vào con người – đầu tư cho tương lai
“Về việc xét tuyển, xét tuyển vào các trường đại học, viện nghiên cứu, tôi nghĩ đó không phải là rào cản đối với những người có năng lực tốt mà thậm chí còn là thế mạnh của họ. Bởi trong xã hội, tốc độ cạnh tranh ở các ngành phát triển lại càng khốc liệt hơn”, Viện trưởng Viện Hóa học, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam bày tỏ.
Trao đổi về vấn đề này, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phương Đình Tâm – Trưởng bộ môn Khoa học và Kỹ thuật Vật liệu, Trường Đại học Phenikaa nhận xét, hiện nay sinh viên hiếm khi chọn ngành khoa học cơ bản làm chuyên ngành. nhập học đại học vì họ cho rằng có rất ít cơ hội việc làm sau khi tốt nghiệp và thu nhập của họ không đủ.
“Rào cản lớn nhất mà sinh viên khoa học cơ bản gặp phải sau khi tốt nghiệp là chưa có cái nhìn rõ ràng về con đường sự nghiệp của mình. Vì vậy, việc hỗ trợ các dự án nghiên cứu và đảm bảo việc làm sau khi tốt nghiệp sẽ giúp sinh viên yên tâm hơn khi lựa chọn ngành học này. Chẳng hạn, trong ngành vật liệu, dù đóng vai trò quan trọng trong hầu hết các công nghệ hiện đại như điện thoại thông minh, xe điện nhưng rất ít sinh viên nhận thức rõ ràng về cơ hội nghề nghiệp cũng như tầm quan trọng của ngành”, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phương Đình Tâm bày tỏ.
Theo ông Tâm, các cơ sở giáo dục cũng cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức của học sinh và phụ huynh về tầm quan trọng, tiềm năng của khoa học cơ bản. Đồng thời, nhà trường tăng cường các hoạt động nghiên cứu thực tế và định hướng nghề nghiệp ngay từ bậc trung học, kết hợp với các cuộc thi giúp học sinh thấy được sức hấp dẫn và giá trị của các lĩnh vực này.
Đầu tư cho khoa học cơ bản là chiến lược bền vững mang lại lợi ích lâu dài cho đất nước
Theo bà Trần Thị Thu Đông – Đại biểu Quốc hội tỉnh Bạc Liêu, Ủy viên Ủy ban Văn hóa – Giáo dục của Quốc hội, Chủ tịch Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam, khoa học cơ bản là nền tảng của mọi tiến bộ khoa học. Khoa học và công nghệ đóng vai trò cốt lõi trong sự phát triển bền vững của một quốc gia. Nghiên cứu khoa học cơ bản không chỉ mở ra những chân trời tri thức mới mà còn tạo ra những đột phá mang tính cách mạng về công nghệ, qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và nâng cao chất lượng cuộc sống. của người dân.
Đại biểu Trần Thị Thu Đông – Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bạc Liêu. (Ảnh: Cổng thông tin điện tử Quốc hội)
Mỗi khám phá khoa học cơ bản đều là những viên gạch góp phần xây dựng nên tòa nhà tri thức khổng lồ của nhân loại. Nhờ đó, chúng ta có được những công nghệ đột phá, từ máy tính, điện thoại thông minh đến phương pháp điều trị những căn bệnh nan y. Hơn nữa, khoa học cơ bản còn cung cấp cơ sở khoa học cho việc hoạch định chủ trương, chính sách xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc… Kết quả nghiên cứu khoa học cơ bản là tiền đề. để phát triển công nghệ và nghiên cứu ứng dụng.
“Tuy nhiên, thực tế cho thấy tuyển sinh các ngành khoa học cơ bản ở nước ta đang gặp rất nhiều khó khăn. Nguyên nhân chính của vấn đề trên xuất phát từ nhận thức chưa đầy đủ của xã hội về tầm quan trọng của nghiên cứu cơ bản, trong khi còn hạn chế về chính sách hỗ trợ và cơ hội việc làm cho sinh viên tốt nghiệp.
Theo tôi, cần đề xuất Nhà nước có thêm chính sách hỗ trợ tương tự như Nghị định 116 về sư phạm các ngành khoa học cơ bản. Nếu xác định “Khoa học cơ bản là nền tảng của phát triển bền vững”, có tầm nhìn hướng tới chiến lược phát triển bền vững quốc gia, tránh tình trạng chạy theo nhu cầu trước mắt thì đề xuất này sẽ có ý nghĩa. Tính khả thi cao”, Đại biểu Quốc hội Trần Thị Thu Đông nêu quan điểm.
Theo Đại biểu Quốc hội tỉnh Bạc Liêu, kết hợp chính sách tài chính và khuyến khích việc làm trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học cơ bản là hướng đi hết sức cần thiết và hiệu quả. Tuy nhiên, để Nhà nước triển khai hiệu quả các chính sách hỗ trợ cho khoa học cơ bản cần nghiên cứu, hoạch định chiến lược toàn diện, tránh tình trạng đầu tư không hiệu quả.
Một là, Nhà nước cần tăng cường đầu tư cho các dự án nghiên cứu cơ bản, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà khoa học trẻ, đặc biệt là các nhà khoa học tiềm năng; Đẩy mạnh cơ chế đặt hàng của Nhà nước đối với nguồn nhân lực khoa học cơ bản; tăng cường đầu tư từ ngân sách kết hợp với trao quyền tự chủ cho các trường đại học theo cơ chế đánh giá dựa trên kết quả đầu ra; Hỗ trợ cơ chế và tài chính để tăng hiệu quả nghiên cứu khoa học cơ bản tiếp cận xu hướng quốc tế.
Thứ hai, Nhà nước cần có cải cách trong chương trình đào tạo các ngành khoa học cơ bản với chuẩn đầu ra đáp ứng nhu cầu kỹ năng của xã hội, đặc biệt là ngoại ngữ.
Thứ ba, Nhà nước cần tạo môi trường làm việc chuyên nghiệp thông qua đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nghiên cứu hiện đại, tạo điều kiện cho các nhà khoa học hợp tác quốc tế và tham gia mạng lưới nghiên cứu. cứu thế giới.
Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, máy móc nghiên cứu hiện đại phục vụ khoa học cơ bản là nhiệm vụ cấp bách. (Ảnh minh họa: Website Trường Đại học Sư phạm – Đại học Quốc gia Hà Nội)
Thứ tư, để thu hút thí sinh theo học các ngành khoa học cơ bản, nhà trường cần liên kết chặt chẽ với các địa phương, doanh nghiệp để tạo điều kiện thực tập thực tế; Mặt khác, nó cho thấy triển vọng nghề nghiệp, kỹ năng cũng như nội dung liên ngành. Bởi nếu không nhìn thấy cơ hội việc làm, các ngành khoa học cơ bản sẽ có xu hướng khó thu hút được những sinh viên có thành tích học tập tốt, năng lực và tư duy tốt.
Thứ năm, Nhà nước cần xây dựng cầu nối giữa nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng, tạo điều kiện cho các nhà khoa học cơ bản hợp tác với doanh nghiệp để chuyển kết quả nghiên cứu thành sản phẩm, dịch vụ có giá trị. đối xử.
Thứ sáu, cần nâng cao nhận thức xã hội thông qua việc tổ chức các hoạt động truyền thông, quảng bá nhằm nâng cao nhận thức xã hội về vai trò quan trọng của khoa học cơ bản, thu hút sự quan tâm của trẻ em. học sinh và phụ huynh.
“Đầu tư cho khoa học cơ bản là chiến lược, mang lại lợi ích lâu dài cho đất nước. Tôi tin rằng, với chiến lược đúng đắn sẽ có thể xây dựng được nền tảng khoa học cơ bản vững mạnh, góp phần đưa đất nước trở thành một nước phát triển, hiện đại”, Đại biểu Quốc hội Trần Thị Thu Đông nói.
Thu Thủy
https://giaoduc.net.vn/vi-dau-nen-noi-nganh-khoa-hoc-co-ban-mat-suc-hut-tu-bac-dai-hoc-tro-len-post245796.gd
Nguồn: https://truonglehongphong.edu.vn
Danh mục: Giáo Dục