Tự chủ đại học được coi là cuộc cách mạng đối với giáo dục đại học. Đến nay, tự chủ đại học đã đạt được một số kết quả, tạo ra những thay đổi tích cực cả về nhận thức xã hội và thực hiện.
- SV học ngành Xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước ra trường làm công việc gì?
- Học bổng cho SV nếu chỉ trông chờ tối thiểu 8% từ nguồn thu học phí là không đủ
- Bộ GD-ĐT thông tin về rà soát văn bằng của Thượng tọa Thích Chân Quang
- Giáo viên xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp hạng I tới đây sẽ khó hơn?
- Cựu SV kiện NEU đòi bồi thường 36 tỷ: Chuyên gia, luật sư nói việc xưa nay hiếm
Những giá trị mà quyền tự chủ mang lại chính là sức mạnh giúp các cơ sở giáo dục đại học nước ta phát huy nội lực, sáng tạo mạnh mẽ, nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, quyền tự chủ của trường đại học hiện nay vẫn còn một số khó khăn, vướng mắc cần được giải quyết.
Bạn đang xem: Rất cần một Nghị quyết riêng về GDĐH để dẫn dắt tự chủ được thực chất, hiệu quả
Cơ chế mở so với giáo dục truyền thống
Trao đổi với Tạp chí Giáo dục điện tử Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Hoàn, Hiệu trưởng Trường Đại học Công thương TP.HCM chia sẻ, cơ chế tự chủ đại học là cơ chế giúp các trường phát triển tự chủ về nhiều mặt. Đây là cơ chế mở so với giáo dục truyền thống.
Cơ chế tự chủ giúp các trường mở rộng quy mô đào tạo, nâng cấp cơ sở vật chất, thu hút nguồn nhân lực và đặc biệt cơ chế tự chủ yêu cầu các cơ sở giáo dục phải tự đảm bảo hoạt động, các đơn vị liên quan phải có trách nhiệm trong việc đề xuất đầu tư trang thiết bị, lựa chọn nâng cấp, đầu tư có chọn lọc, tập trung và chịu trách nhiệm trong việc duy trì cơ sở vật chất.
Đồng thời, cơ chế tự chủ giúp mở rộng cơ chế khoán chi một số hoạt động cho các đơn vị đào tạo, dịch vụ trong trường, qua đó hình thành các mô hình hoạt động tự chủ (công ty, đơn vị tự chủ trực thuộc trường) để nâng cao chất lượng dịch vụ tại trường, gắn kết công tác giáo dục tại cơ sở với dịch vụ cho người học.
Ngoài ra, cơ chế tự chủ giúp nhà trường thực hiện đề án trả lương theo vị trí việc làm, trả lương theo công việc, nhiệm vụ được giao, qua đó nâng cao năng suất lao động, phát huy tối đa tinh thần làm việc, học tập, tự chủ, sáng tạo.
Đặc biệt, với cơ chế tự chủ, nhà trường có thể chủ động cân đối việc thực hiện các chính sách hỗ trợ, khuyến khích người học như hỗ trợ học bổng, hỗ trợ hoạt động nghiên cứu khoa học, sáng tạo, khởi nghiệp… nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người học khi tham gia học tập, nghiên cứu, phát huy tinh thần “không để ai bị bỏ lại phía sau”.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Hoàn, Hiệu trưởng Trường Đại học Công thương TP.HCM. Ảnh: Website trường
Chia sẻ về vấn đề này, PGS, TS Lê Viết Báu – Chủ tịch Hội đồng trường ĐH Hồng Đức cho biết, có thể nói trong 3 trụ cột chính của tự chủ đại học là tự chủ về học thuật, tự chủ về nhân sự và tự chủ về tài chính, tự chủ về học thuật đã đạt được nhiều thành công nhất.
Các trường được tự chủ trong tuyển sinh, mở ngành đào tạo, chương trình đào tạo, liên kết đào tạo… Sau khi đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định, hướng dẫn tại Nghị định 99/2019/NĐ-CP của Chính phủ, các trường được tự chủ mở ngành đào tạo đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động.
Bởi vì sự thay đổi nhanh chóng của xã hội trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã dẫn đến sự xuất hiện của nhiều ngành nghề mới như thương mại điện tử, trí tuệ nhân tạo,… Cùng với đó là sự suy giảm nhu cầu xã hội đối với một số ngành nghề.
Với sứ mệnh của mình, các trường đại học cần nhanh chóng thay đổi ngành nghề đào tạo cũng như phương pháp và hình thức đào tạo, điều này chỉ có thể thích ứng nhanh chóng nếu các trường tự chủ. Thực tế đã chứng minh, tự chủ đã giúp các trường rút ngắn khoảng cách giữa đào tạo và việc làm.
Xem thêm : Các trường Hà Nội được linh hoạt hình thức dạy học do mưa lũ
Mọi quá trình đều có hai mặt.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Hoàn cho rằng, mọi quá trình đều có hai mặt. Với tự chủ đại học, cơ chế đòi hỏi mỗi cơ sở giáo dục phải thích ứng và liên tục có chiến lược phát triển phù hợp để đảm bảo cơ chế vận hành.
Thứ nhất, tự chủ tài chính đòi hỏi phải có chính sách và truyền thông để thu hút nguồn tài trợ từ bên ngoài và từ các dịch vụ, khoa học công nghệ. Nguồn thu chính là học phí, cùng với quy định không tăng học phí trong 3 năm, đòi hỏi các cơ sở giáo dục phải đối mặt với nhiều khó khăn trong việc cân đối đầu tư và tái đầu tư trong vòng 3,5 – 4 năm (1 khóa học).
Cùng với đó, nguồn thu chính từ học phí khiến các trường tự chủ có mức học phí cao hơn so với các trường được ngân sách nhà trường hỗ trợ, điều này cũng gây khó khăn trong tuyển sinh.
Thứ hai, quyền tự chủ về nhân sự cho phép các trường quyết định số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ, giảng viên. Tuy nhiên, điều này đặt ra nhiều khó khăn trong việc đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng giảng viên và cân bằng giữa chuyên môn và kinh nghiệm.
Thứ ba, cơ chế tự chủ cho phép các trường thực hiện quyền tự chủ, nhưng không có cơ chế bảo vệ các trường và cán bộ thực hiện quyền tự chủ. Ngoài nhiều văn bản pháp luật chồng chéo, khâu thanh tra, tổ chức thanh tra còn rườm rà, dẫn đến nhiều khó khăn trong việc thực hiện quyền tự chủ.
Tóm lại, cơ chế tự chủ đòi hỏi các trường phải xác định rõ mục tiêu phát triển, lộ trình chiến lược và kế hoạch tài chính dài hạn. Đồng thời, có chính sách, quy định thực hiện tự chủ bám sát và tuân thủ chặt chẽ các quy định của pháp luật.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Viết Báu, Chủ tịch Hội đồng quản trị Trường Đại học Hồng Đức. Ảnh: Website trường
Theo PGS, TS Lê Viết Báu, đúng là mọi quá trình đều có hai mặt. Việc mở rộng quyền tự chủ, trong đó có quyền tự chủ về học thuật đã tạo điều kiện cho các trường tự chủ mở các chương trình đào tạo.
Mặc dù Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành văn bản quy định điều kiện mở ngành đào tạo với các tiêu chí rõ ràng, hợp lý nhưng nhiều ngành đào tạo mở với điều kiện tuy đủ về số lượng nhưng còn nhiều vấn đề đáng bàn về chất lượng.
Ở một số nơi và một số ngành nghề, việc khảo sát nhu cầu xã hội chưa được thực hiện chặt chẽ, dẫn đến tình trạng một số ngành không tuyển được hoặc tuyển được nhưng chất lượng đầu vào thấp.
Ngoài ra, các trường tự chủ quyết định chỉ tiêu tuyển sinh dựa trên năng lực đào tạo nên số lượng chỉ tiêu tăng lên, không chỉ dẫn đến chất lượng đầu vào giảm, nhất là đối với các trường xếp hạng thấp. Để đảm bảo nguồn tài chính cho trường, các trường này vẫn phải chấp nhận giảm chất lượng để duy trì hoặc mở rộng quy mô đào tạo, ảnh hưởng lớn đến chất lượng nguồn nhân lực.
Xem thêm : Chú trọng việc phát hiện nguy cơ có ảnh hưởng tiêu cực đến học sinh
Để làm cho quá trình tự chủ trở nên thực tế và hiệu quả
Ông Báu cho biết thêm, giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng có những đặc thù riêng.
Giáo dục đại học nhằm tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ phát triển kinh tế – xã hội. Sản phẩm của giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng không thể đánh giá chính xác trong giai đoạn trước mắt mà là cả một quá trình.
Quá trình tự chủ của trường đại học sẽ khác với quá trình tự chủ của doanh nghiệp. Giáo dục đại học cũng có những đặc điểm như tính dự đoán, tính cởi mở, tính đổi mới, tính sáng tạo, v.v., nên tính tự chủ phải được đặt lên hàng đầu. Do đó, cần có một Nghị quyết riêng về giáo dục đại học để chỉ đạo quá trình tự chủ một cách thiết thực và hiệu quả.
Trước hết, quyền tự chủ của trường đại học phải được xác định chủ yếu là quyền tự chủ về học thuật và nhân sự. Nhà nước phải có trách nhiệm nhất định về mặt bảo đảm tài chính cho các cơ sở giáo dục đại học thông qua hình thức đặt hàng dựa trên năng lực và chất lượng đào tạo của các cơ sở giáo dục đại học.
Điều này không chỉ tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh để các trường đại học phát triển mà còn tạo ra cơ hội học tập cho người học. Đồng thời, cần có nhiều chính sách hơn nữa để tạo điều kiện cho các trường nâng cao chất lượng đào tạo, trước hết là chất lượng đội ngũ cán bộ.
Ngoài ra, việc không tăng học phí trong những năm gần đây cũng gây khó khăn cho các trường đại học tự chủ. Do đó, cần có nhiều chính sách hơn nữa để tạo điều kiện cho các trường nâng cao chất lượng đào tạo, trước hết là chất lượng đội ngũ cán bộ.
Cùng với đó, cần có chính sách đảm bảo chất lượng đào tạo một cách khoa học, công khai, minh bạch để tất cả sinh viên tốt nghiệp đại học đều đạt chuẩn đầu ra. Thắt chặt đầu ra theo hướng này sẽ tạo ra một luồng để sinh viên vào các trường đại học, cao đẳng nghề theo đúng năng lực và thế mạnh của mình.
Thứ hai, Nghị quyết (nếu có) và các văn bản quy phạm pháp luật cũng cần quy định rõ Nhà nước quản lý bằng hình thức thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định về tài chính của các cơ sở giáo dục đại học, không can thiệp quá sâu vào việc sử dụng tài chính của các cơ sở giáo dục đại học, nhất là các nguồn tài chính không do ngân sách cấp.
Đối với nguồn tài chính do nhà nước bảo lãnh, nguồn này phải được kiểm soát chặt chẽ từ đầu vào đến đầu ra. Tuy nhiên, đối với nguồn tự chủ, nhà trường phải được chủ động sử dụng nguồn tài chính cho công tác nhà trường. Chỉ khi đó nhà trường mới có thể chủ động lập kế hoạch hoạt động của mình.
Thứ ba, để đạt được quyền tự chủ thực sự, cần phải trao nhiều quyền tự chủ hơn cho các trường thông qua hội đồng nhà trường. Cơ quan quản lý trực tiếp nên phân cấp nhiều hơn cho hội đồng nhà trường.
Điều này hoàn toàn hợp lý vì Luật quy định thành viên Hội đồng trường được mời là đại diện của cơ quan quản lý trực tiếp. Trong trường hợp cần thiết, có thể tăng cường vai trò của đại diện cơ quan quản lý, ví dụ, Nghị quyết Hội đồng trường chỉ được thông qua khi có sự nhất trí của trên 50% thành viên Hội đồng trường, trong đó có sự nhất trí của đại diện cơ quan quản lý.
Theo PGS.TS Nguyễn Xuân Hoàn, nếu có Nghị quyết riêng thì cần nhấn mạnh các chính sách, chế độ bảo vệ nhà trường, cán bộ, công nhân viên, học sinh, sinh viên để đơn vị chủ động triển khai cơ chế, tập trung phát triển theo chiến lược dài hạn.
Thu Trang
https://giaoduc.net.vn/rat-can-mot-nghi-quyet-rieng-ve-gddh-de-dan-dat-tu-chu-duoc-thuc-chat-hieu-qua-post245267.gd
Nguồn: https://truonglehongphong.edu.vn
Danh mục: Giáo Dục