Về mạng lưới trường học
- Trao Giải thưởng khoa học công nghệ dành cho giảng viên trẻ và sinh viên
- Chủ tịch UBND TP Hà Nội dự lễ khai giảng tại Trường THCS Ngô Sĩ Liên
- Hà Nội có 7 “Nhà giáo trẻ tiêu biểu” cấp Trung ương
- Nhiều kỳ thi riêng để xét tuyển đại học dự kiến diễn ra trong năm 2025
- 5 học sinh Hà Nội dự thi Olympic thiên văn và vật lý thiên văn quốc tế
Theo số liệu từ Vụ Giáo dục Tiểu học (Bộ Giáo dục và Đào tạo), năm học 2023-2024, cả nước có 14.585 cơ sở giáo dục thực hiện Chương trình giáo dục Tiểu học (gồm 12.177 trường Tiểu học, 2.206 trường Tiểu học – THCS, 202 trường Tiểu học – THCS, 58 trường quốc tế, 169 trường trực thuộc Sở; 14.188 trường công lập, 390 trường dân lập, tư thục) (giảm 123 cơ sở giáo dục so với năm học 2022-2023) với 15.268 điểm trường (giảm 249 điểm trường so với năm học 2022-2023); tỷ lệ bình quân là 1,37 cơ sở giáo dục Tiểu học/đơn vị hành chính cấp xã, tỷ lệ trường/cơ sở giáo dục Tiểu học là 1,05, trong đó nhiều cơ sở giáo dục Tiểu học có từ 3 đến 5 trường (chủ yếu ở vùng núi).
Bạn đang xem: Những con số về đội ngũ thầy cô, học sinh và mạng lưới trường lớp ở bậc tiểu học
Thời gian qua, các địa phương đã tích cực sắp xếp lại mạng lưới, quy mô trường, lớp phù hợp để tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, bảo đảm quyền học tập của học sinh; tập trung duy trì, mở rộng số phòng học, tăng thêm phòng học kiên cố, bán kiên cố, giảm số phòng học tạm, phòng học mượn để đáp ứng yêu cầu triển khai chương trình giáo dục hiện hành theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội của địa phương và góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, sẵn sàng triển khai Chương trình giáo dục phổ thông tiểu học năm 2018.
Tỷ lệ phòng học/lớp học bình quân toàn quốc là 1,32, trong đó phòng học kiên cố chiếm 71%; phòng học bán kiên cố chiếm 25%; phòng học tạm, mượn chiếm 0,9%; số phòng học đang sử dụng, mượn là 11.931 phòng; cơ bản ổn định so với năm học trước, cụ thể tỷ lệ phòng học/lớp học cấp tiểu học tại các vùng trên toàn quốc như sau:
Nguồn từ hệ thống cơ sở dữ liệu ngành giáo dục (http://bgd.csdl.moet.gov.vn)
Tuy nhiên, sau khi sắp xếp, sáp nhập, quy hoạch lại trường, địa điểm trường, một số khu vực dân cư phân tán, giao thông bị cắt đứt, ảnh hưởng đến việc đến trường của học sinh. Một số trường gặp khó khăn do giải quyết chế độ chính sách cho cán bộ quản lý, nhân viên văn phòng, kế toán… thừa sau khi sáp nhập mà chưa có giải pháp hữu hiệu.
Về sinh viên và kết quả huy động tuyển sinh
Năm học 2023-2024, tổng số học sinh tiểu học cả nước là 8.919.198 học sinh (giảm 313.518 học sinh so với năm học trước); tổng số lớp là 281.611 (giảm 5.804 lớp so với năm học trước); tỷ lệ học sinh/lớp bình quân là 32, ổn định so với năm học trước.
Nguồn từ hệ thống cơ sở dữ liệu ngành giáo dục (http://bgd.csdl.moet.gov.vn)
Các địa phương đã làm tốt công tác phổ cập điều tra, dự báo tình hình tăng, giảm học sinh trên địa bàn nên số lượng học sinh tăng nhưng các địa phương đã đáp ứng được các điều kiện về cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên để tổ chức dạy và học theo quy định của chương trình, đảm bảo sĩ số học sinh/lớp theo quy định của Điều lệ trường Tiểu học. Tuy nhiên, một số địa phương, khu vực đô thị, thành phố lớn do sức ép của tốc độ tăng dân số cơ học nhanh đã dẫn đến số học sinh/lớp vượt quá tỷ lệ quy định như: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Bình Dương… và một số thành phố, trung tâm của các tỉnh.
Các địa phương đã làm tốt công tác vận động học sinh nhập học đúng độ tuổi, đầu năm học 2023-2024, tỷ lệ này là 1.703.686/1.708.813 (99,7%). Việc triển khai đánh giá học sinh từng bước đi vào chiều sâu, không chạy theo thành tích, coi việc nâng cao chất lượng giáo dục học sinh là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu. Đến cuối năm học 2023-2024, tỷ lệ học sinh hoàn thành bậc tiểu học là 98,17%, phản ánh chất lượng giáo dục chung của toàn quốc.
Nguồn từ hệ thống cơ sở dữ liệu ngành giáo dục (http://bgd.csdl.moet.gov.vn)
DGiáo viên và quản lý trường tiểu học
Các địa phương tiếp tục tập trung xây dựng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục đảm bảo đủ về số lượng, cơ cấu hợp lý, yêu cầu về chất lượng, nguồn nhân lực được chuẩn bị tốt để thực hiện Chương trình giáo dục tiểu học. Tiếp tục rà soát, đánh giá đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên theo chuẩn hiệu trưởng, giáo viên tiểu học, trên cơ sở đó xây dựng và triển khai kế hoạch nâng cao năng lực đáp ứng chuẩn.
Cụ thể, hầu hết các Sở Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo Phòng Giáo dục và Đào tạo các quận, huyện, thành phố rà soát, tổng hợp nhu cầu giáo viên, báo cáo UBND cấp huyện tham mưu cho Hội đồng nhân dân cấp huyện ban hành Nghị quyết về việc hỗ trợ kinh phí hợp đồng lao động giáo viên năm học 2023-2024 bảo đảm đủ giáo viên trong các cơ sở giáo dục; ưu tiên giáo viên có năng lực, trình độ chuyên môn, đảm bảo yêu cầu đáp ứng Chương trình giáo dục phổ thông năm 2018 dạy các lớp 1, 2, 3, 4.
Bên cạnh đó, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực quản lý và tổ chức dạy học tích cực cho đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông năm 2018, đặc biệt là xây dựng và triển khai tốt kế hoạch bồi dưỡng giáo viên các lớp 1, 2, 3, 4; tạo điều kiện để tất cả giáo viên, cán bộ quản lý (kể cả trường công lập và ngoài công lập) tham gia các lớp bồi dưỡng nâng cao năng lực quản lý và tổ chức dạy học đáp ứng yêu cầu thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông năm 2018 trong bối cảnh đổi mới giáo dục tiểu học.
Xem thêm : Mô hình ngân hàng thu nhỏ tại đại học: Giáo dục vươn tầm bước vào kỷ nguyên mới
Các cơ sở giáo dục đã thực hiện tốt quy chế dân chủ, nâng cao vai trò, trách nhiệm, lương tâm, đạo đức của người thầy; mỗi thầy cô giáo thực sự là tấm gương sáng để học sinh noi theo; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 138/CT-BGDĐT ngày 18/01/2019 về chấn chỉnh tình trạng lạm dụng hồ sơ, sổ sách trong nhà trường nhằm giảm áp lực sổ sách không cần thiết cho giáo viên.
Năm học 2023-2024, cả nước có 485.200 cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên tiểu học, trong đó có 393.096 giáo viên (giảm 755 giáo viên so với năm học 2022-2023), tỷ lệ giáo viên/lớp bình quân cấp tiểu học là 1,41. Nhìn chung, về cơ bản đủ dạy 2 tiết/ngày. Các địa phương sẽ tăng cường tuyển dụng giáo viên mới, tập trung vào giáo viên các môn học mới ở cấp tiểu học khi triển khai chương trình giáo dục phổ thông mới như tiếng Anh, công nghệ thông tin. Phân bố tỷ lệ giáo viên/lớp ở cấp tiểu học theo vùng trên toàn quốc như sau:
Nguồn từ hệ thống cơ sở dữ liệu ngành giáo dục (http://bgd.csdl.moet.gov.vn)
Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học và học liệu
Sở Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo Phòng Giáo dục và Đào tạo các huyện, thành phố rà soát, đánh giá hiện trạng cơ sở vật chất trường học, trên cơ sở đó tham mưu cho cấp ủy, chính quyền các cấp đầu tư tăng cường cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị dạy học, đáp ứng yêu cầu đổi mới Chương trình giáo dục phổ thông năm 2018 và tiêu chuẩn cơ sở vật chất trường, lớp học theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Các Sở Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo rà soát nhu cầu, đăng ký và triển khai mua sắm trang thiết bị dạy học tối thiểu lớp 4; mua sắm trang thiết bị dạy học hiện đại, phòng học thông minh cho các lớp lớp 4 theo lộ trình triển khai Chương trình giáo dục phổ thông năm 2018.
Ngoài ra, từ nguồn ngân sách địa phương và nguồn xã hội hóa, nhiều trường đã được trang bị các thiết bị dạy học hiện đại như tivi thông minh, máy chiếu, bảng thông minh,… để triển khai hiệu quả các hoạt động giáo dục. Ngoài ra, nhiều trường đã huy động nguồn lực mua sắm trang thiết bị dạy học cho các lớp học để tổ chức dạy học trực tuyến kết hợp với dạy học trực tiếp như một giải pháp chung khi điều kiện dạy học trực tiếp gặp khó khăn. Đồng thời, kế thừa các trang thiết bị dạy học này để áp dụng vào quá trình tổ chức dạy học trực tiếp phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh và nhu cầu của từng địa phương, từng trường trong năm học.
Thành phần bảo mật
https://giaoduc.net.vn/nhung-con-so-ve-doi-ngu-thay-co-hoc-sinh-va-mang-luoi-truong-lop-o-bac-tieu-hoc-post244498.gd
Nguồn: https://truonglehongphong.edu.vn
Danh mục: Giáo Dục