Hiện Bộ Giáo dục và Đào tạo đang lấy ý kiến dự thảo Thông tư quy định xác định chỉ tiêu tuyển sinh giáo dục đại học và chỉ tiêu tuyển sinh cao đẳng ngành Giáo dục Mầm non.
- Học sinh lớp 12 hoàn thành việc thử đăng ký thi tốt nghiệp THPT
- Tổ trưởng chuyên môn mong được giữ chế độ giảm định mức và phụ cấp
- Đặt hàng đào tạo: Cần có quy định rõ ràng về trách nhiệm của các bên tham gia
- Ngành Logistic và chuỗi cung ứng lấy điểm cao nhất Trường ĐH Hàng hải Việt Nam
- Huyện Đan Phượng thông tin về việc sử dụng sản phẩm từ sữa trong các trường học
Điểm mới đáng chú ý trong dự thảo Thông tư là đưa ra 2 tiêu chí các cơ sở giáo dục đại học không được tăng so với mục tiêu và thực tế tuyển sinh năm trước, gồm: Tỷ lệ bỏ học năm thứ nhất cao hơn 15%; Tỷ lệ sinh viên ra trường có việc làm thấp hơn 70%.
Bạn đang xem: Không tăng chỉ tiêu khi số SV tốt nghiệp có việc làm dưới 70%, CSGDĐH nói gì?
Trong khi quy định hiện hành chưa đề ra nội dung về tỷ lệ bỏ học, quy định duy nhất là không tăng chỉ tiêu nếu tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc làm trong thời gian 12 tháng kể từ ngày được công nhận tốt nghiệp của ngành đó đạt ít hơn 80% hoặc tỷ lệ thực hiện chỉ tiêu tuyển sinh của ngành đó trong năm tuyển sinh ngay trước năm tuyển sinh đạt dưới 80% (trừ trường hợp ngành đào tạo trình độ đại học có chương trình đào tạo được công nhận đạt kiểm định chất lượng). tiêu chuẩn).
Quy định mới phù hợp với tính chất hoạt động đào tạo và thực tế thị trường lao động
Về điểm mới nêu trên trong dự thảo, trao đổi với phóng viên Tạp chí Điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đức Trung – Hiệu trưởng Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM cho rằng quy định này rất hợp lý, đúng với bản chất hiện nay. hoạt động đào tạo.
Theo ông Trung, trên thực tế, không phải sinh viên nào sau khi tốt nghiệp cũng có được việc làm ngay như mong muốn bởi thị trường lao động hiện nay đang có những thay đổi nhất định. Hơn nữa, thực tế hiện nay là tỷ lệ thất nghiệp tự nguyện của sinh viên sau khi tốt nghiệp như học thêm, nâng cao trình độ chuyên môn… không hề thấp.
Vì vậy, mức tối thiểu 70% để tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc làm là phù hợp với thị trường lao động cũng như thực tế sinh viên tốt nghiệp hiện nay.
Sinh viên trường Đại học Ngân hàng TP.HCM (Ảnh: Website Trường).
Ông Trung cho biết thêm, hiện nay thị trường lao động đang dần minh bạch hơn; Các doanh nghiệp, người sử dụng lao động cũng dần trở nên chuyên nghiệp hơn, góp phần định hướng thị trường lao động, định hướng hoạt động học tập của sinh viên…
Thảo luận về điểm mới nêu trên, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Tô Văn Phương – Trưởng phòng Đào tạo Đại học, Đại học Nha Trang bày tỏ, dự thảo quy định các trường đại học không thể tăng chỉ tiêu nếu tỷ lệ người giỏi cao. Những ngành nghề có tỷ lệ việc làm dưới 70% sẽ nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cơ sở đào tạo trong việc phối hợp, hỗ trợ các trường THPT trong việc tư vấn, định hướng nghề nghiệp, tư vấn tuyển sinh. để học sinh có thông tin đầy đủ trước khi lựa chọn ngành, trường phù hợp.
Xem thêm : Cho GV dạy thêm học sinh chính khóa, trò không muốn học cũng khó vì…sợ
“Tôi cho rằng quy định như vậy là phù hợp vì xét cho cùng, các trường đại học đào tạo sinh viên tốt nghiệp cần phải có việc làm, hạn chế việc tăng chỉ tiêu không sát với nhu cầu thực tế của xã hội”. Anh Phương chia sẻ.
Ông Phương cho biết thêm, hiện nay có một số quan điểm về tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc làm như tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc làm đúng ngành đào tạo; Tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc làm phù hợp với chuyên môn được đào tạo; hoặc tỷ lệ sinh viên có việc làm.
Trong đó, tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp được đào tạo đúng trình độ chuyên môn và tạo việc làm được coi là tiêu chí đánh giá cơ bản, đã được đưa vào quy định tại Tiêu chuẩn cơ sở giáo dục đại học (Thông tư 01/2024/TT-BGDĐT) . Vì vậy, chúng ta cần cân nhắc việc sử dụng khái niệm này. Bởi vì, tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc làm đúng ngành hoặc việc làm nói chung có thể khó phản ánh đầy đủ, toàn diện vấn đề việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp.
Trong khi đó, theo TS Trần Hữu Duy – Trưởng phòng Quản lý đào tạo, Đại học Đà Lạt, dự thảo đưa ra điểm mới này nhằm tuân thủ quy định tại Thông tư số 01/2024/TT-BGDDT của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành. Tiêu chuẩn của các cơ sở giáo dục đại học.
Cụ thể, tại Tiêu chuẩn 5 về Tuyển sinh, Đào tạo của Thông tư số 01/2024/TT-BGDĐT có nêu “Tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp đại học có công việc phù hợp với trình độ chuyên môn được đào tạo và tự tạo”. việc làm hoặc học lên cao hơn ở trình độ cao hơn trong vòng 12 tháng sau khi tốt nghiệp, không dưới 70%.
Sinh viên Đại học Đà Lạt (Ảnh: Website Trường).
Bên cạnh đó, con số 70%, thấp hơn 10% so với quy định hiện hành cũng nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các trường đại học trong việc xác định mục tiêu. Đặc biệt, điểm mới này còn phù hợp hơn với thực tế khi có những chuyên ngành đào tạo đáp ứng nhu cầu hiện tại của xã hội nhưng cũng có những chuyên ngành đào tạo để chuẩn bị cho chiến lược phát triển trong tương lai.
Việc điều chỉnh tỷ lệ bỏ học có tác động tích cực hay tiêu cực?
Mặt khác, theo ông Phương, nếu quy định tỷ lệ bỏ học năm đầu tiên cao hơn 15% thì chỉ tiêu tuyển sinh năm sau không thể tăng, có thể sẽ có tác động tích cực.
Thứ nhất, quy định này sẽ giúp các trường có trách nhiệm hơn và quan tâm hơn đến các giải pháp, chính sách hỗ trợ nâng cao chất lượng đào tạo, trong đó có cơ chế, chính sách giúp học sinh học tập tốt. , không bị buộc phải bỏ học ngay từ năm đầu tiên.
Sinh viên Đại học Nha Trang (Ảnh: Website trường).
Thứ hai, nếu tỷ lệ bỏ học năm thứ nhất cao hơn 15% thì có thể phản ánh một số nguyên nhân, hoặc là người học thấy không phù hợp/không hứng thú theo đuổi ngành đào tạo; hoặc cho rằng nhu cầu xã hội chưa được như mong đợi, nếu tiếp tục học tập sẽ ảnh hưởng đến cơ hội việc làm. Như vậy, quy định các trường không được tăng chỉ tiêu cũng là một yếu tố tích cực.
Tuy nhiên, ở góc độ khác, quy định này có thể vô tình buộc nhiều trường đại học phải giữ lại những sinh viên không đảm bảo chất lượng để duy trì quy mô đào tạo.
Cũng theo ông Trung, việc bổ sung quy định về tỷ lệ bỏ học để xác định chỉ tiêu tuyển sinh là phù hợp vì cơ sở đào tạo không thể tăng chỉ tiêu tuyển sinh khi năm ngoái có quá nhiều sinh viên bỏ học.
Không những vậy, điều này còn phần nào khẳng định ngành học không phù hợp với thị trường nên sau khi học một thời gian, sinh viên dừng lại. Từ đó, nhà trường sẽ tự rà soát, đánh giá lại các chuyên ngành, chất lượng đào tạo. Tất nhiên, nếu trường nào giữ lại học sinh kém chất lượng để tránh vi phạm quy định này thì danh tiếng sẽ bị giảm sút.
Ông Trung cho rằng, quy định này còn nhằm thể hiện trách nhiệm, vai trò của Bộ Giáo dục và Đào tạo trong việc đảm bảo tính minh bạch và lợi ích cho người học, tránh thực hiện các hoạt động cạnh tranh không lành mạnh và các ngành đào tạo không còn phù hợp với thị trường lao động. Nhiều quốc gia có nền giáo dục phát triển trên thế giới hiện nay đã kiểm soát được tỷ lệ học sinh bỏ học.
Theo Trưởng phòng Quản lý đào tạo, Đại học Đà Lạt, nếu tỷ lệ bỏ học năm thứ nhất cao hơn 15% thì năm sau trường không thể tăng chỉ tiêu tuyển sinh, các trường cũng sẽ khó khăn hơn. . Tuy nhiên, nhà trường buộc phải thực hiện những thay đổi, bổ sung này vì Thông tư số 01/2024/TT-BGDĐT cũng đưa ra quy định tương tự khi đánh giá tiêu chuẩn tuyển sinh, đào tạo của các cơ sở giáo dục. giáo dục đại học.
Cụ thể, Tiêu chí 5.2 tại Tiêu chuẩn 5 về tuyển sinh, đào tạo của Thông tư số 01/2024/TT-BGDĐT nêu rõ “Tỷ lệ bỏ học, được xác định bằng tỷ lệ sinh viên chưa tốt nghiệp không tiếp tục học tiếp hàng năm, không cao hơn”. hơn 10% và đặc biệt đối với sinh viên năm thứ nhất không cao hơn 15%”
Tường San
https://giaoduc.net.vn/khong-tang-chi-tieu-khi-so-sv-tot-nghiep-co-viec-lam-duoi-70-csgddh-noi-gi-post246814.gd
Nguồn: https://truonglehongphong.edu.vn
Danh mục: Giáo Dục