Bệnh động mạch chi dưới là bệnh thường gặp ở người cao tuổi. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng bệnh lý này, trong đó xơ vữa động mạch là nguyên nhân hàng đầu. Hậu quả của bệnh động mạch chi dưới mạn tính hiếm khi gây tử vong (khoảng 1%) nhưng ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống, sinh hoạt, công việc và lao động của người bệnh.
- Uống nước chanh vào buổi sáng cần lưu ý gì?
- Loại rau có vị ngọt, thanh mát, bán đầy chợ Việt, người bệnh tiểu đường nên ăn để kéo dài tuổi thọ
- Uống trà nhiều có tốt không? Nên uống loại trà nào trong một ngày?
- Cây thủy sinh là gì? Cách trồng và chăm sóc các loại cây thủy sinh
- Cách làm nước sốt chấm cơm cháy ngon thơm đặc sản người Ninh Bình
Ở Việt Nam, các bệnh về tim mạch nói chung xuất hiện ngày càng thường xuyên, liên quan mật thiết đến các yếu tố nguy cơ: hút thuốc lá, tiểu đường, tăng huyết áp, béo phì… Bệnh động mạch chi dưới mãn tính và các biến chứng của nó cũng ngày càng phổ biến.
Bạn đang xem: Đau chân khi đi bộ cảnh giác với bệnh động mạch chi dưới
Dấu hiệu bệnh động mạch chi dưới
Triệu chứng điển hình của bệnh động mạch chi dưới là đau chân khi hoạt động thể chất, chẳng hạn như đi bộ, tình trạng này sẽ thuyên giảm sau khi nghỉ ngơi. Các triệu chứng đau, nhức hoặc chuột rút khi đi lại (khập khiễng) có thể xảy ra ở mông, hông, đùi hoặc bắp chân.
Hậu quả của bệnh động mạch chi dưới mãn tính ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống, sinh hoạt, công việc và lao động của người bệnh.
Các dấu hiệu thực thể ở chân có thể chỉ ra bệnh động mạch chi dưới bao gồm:
- Teo cơ (yếu)
- Rụng tóc
- Da mỏng, bóng; Da lạnh khi chạm vào, đặc biệt nếu kèm theo cảm giác đau cách hồi khi đi bộ (điều này sẽ cải thiện khi dừng đi bộ).
- Mạch ở chân giảm hoặc mất hẳn.
- Loét chân hoặc bàn chân không lành; và ngón chân lạnh hoặc tê.
Xem thêm : Uống sữa bắp có mập không? Cách uống như thế nào là tốt?
Nếu chi dưới không được điều trị, không chỉ xuất hiện cơn đau mà còn xuất hiện vết loét hoặc hoại tử chi do thiếu máu. Đây là biến chứng nặng có thể phải cắt cụt chi, gây tàn phế cho người bệnh. Tùy theo vị trí hoại tử mà mức độ cắt cụt cao hay thấp.
Các xét nghiệm đánh giá chính xác mức độ tổn thương do động mạch chi dưới thường được áp dụng hiện nay bao gồm: siêu âm mạch máu, chụp cắt lớp vi tính hàng loạt máy dò (MSCT) và chụp động mạch để xác định mức độ tổn thương. Hẹp mạch máu, vị trí chính xác của mạch máu bị thu hẹp. Đây là những xét nghiệm được nhiều trung tâm, bệnh viện tuyến tỉnh, trung ương thực hiện thường xuyên. Những xét nghiệm này giúp bác sĩ có kế hoạch điều trị phù hợp.
Điều trị bệnh động mạch chi dưới
Điều trị đúng chuyên khoa là điều quan trọng nhất để giảm thời gian thiếu máu cục bộ chi dưới, tăng khả năng tái thông mạch máu và bảo tồn chi dưới. Các phương pháp điều trị hiện tại bao gồm:
Bệnh nhân cần được điều trị bằng thuốc ngay cả khi không can thiệp phẫu thuật mạch máu hoặc trước và sau can thiệp phẫu thuật mạch máu. Các loại thuốc được sử dụng bao gồm thuốc chống huyết khối (thuốc chống kết tập tiểu cầu hoặc kèm theo thuốc chống đông máu thế hệ mới liều thấp), thuốc giãn mạch, tăng lưu lượng máu nuôi dưỡng chi, thuốc ổn định mảng xơ vữa động mạch, thuốc chống viêm. Kiểm soát bệnh cao huyết áp và tiểu đường.
- Điều trị bằng can thiệp nội mạch
Đây là phương pháp hiện đại và đã được thực hiện ở nhiều nước trên thế giới cũng như Việt Nam, tuy nhiên cần có các trung tâm mạch máu chuyên khoa để điều trị đúng cách và hiệu quả.
Phương pháp này ít xâm lấn, bác sĩ chỉ dùng dụng cụ đưa vào động mạch bị thu hẹp, nong đoạn động mạch bị thu hẹp và đặt stent tại vị trí bị thu hẹp. Kết quả điều trị bằng can thiệp mạch máu cho kết quả rất tốt, với ưu điểm là có thể can thiệp vào nhiều mạch máu, nhiều lớp mạch máu trong một lần can thiệp, bệnh nhân hồi phục nhanh, có thể xuất viện sớm.
Xem thêm : Đi khám vì đau đầu, người đàn ông ở Hà Nội mới biết mình bị suy thận giai đoạn cuối
Bệnh động mạch chi dưới là bệnh thường gặp ở người cao tuổi.
Điều trị phẫu thuật
Phẫu thuật cắt bỏ nội mạc động mạch, bắc cầu bằng vật liệu tự thân hoặc mạch máu nhân tạo là những phương pháp điều trị cổ điển. Bác sĩ sẽ làm một cây cầu mới để đi vòng quanh động mạch bị tổn thương.
Phẫu thuật lai là sự kết hợp giữa can thiệp nội mạch và phẫu thuật mạch máu chi dưới, tận dụng ưu điểm của cả hai phương pháp, mang lại hiệu quả tưới máu tối đa, đặc biệt đối với những tổn thương khó can thiệp hoặc phẫu thuật. không thể thực hiện riêng lẻ hoặc có thể thực hiện không hiệu quả.
Tóm lại: Bệnh động mạch chi dưới cần được khám và phát hiện sớm, ở giai đoạn không đau khi nghỉ ngơi hoặc không loét, hoại tử chi do thiếu máu. Việc phát hiện sớm sẽ giúp người bệnh tránh được tình trạng tàn tật do biến chứng của bệnh.
Khi bệnh xuất hiện và có tình trạng đau cách hồi, người bệnh cần được bác sĩ tim mạch tư vấn và uống thuốc đều đặn theo chỉ định. Định kỳ theo dõi để can thiệp kịp thời tránh biến chứng.
https://giadinh.suckhoedoisong.vn/dau-chan-khi-di-bo-canh-giac-voi-benh-dong-mach-chi-duoi-172250101230008308.htm
Nguồn: https://truonglehongphong.edu.vn
Danh mục: Cẩm nang