Mới đây, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã công bố dự thảo Thông tư quy định về đánh giá chất lượng chương trình đào tạo các trình độ giáo dục đại học để lấy ý kiến rộng rãi.
- Ngày hội việc làm HPU2: Kết nối 35 đơn vị tuyển dụng, hơn 1.500 vị trí việc làm
- Giáo viên tích cực tham gia tập huấn về nội dung ôn thi tốt nghiệp năm 2025
- Nữ thủ khoa và nỗ lưc giành học bổng tích hợp TS, ThS từ khi chưa tốt nghiệp ĐH
- Trường ĐH Giáo dục: Sôi nổi Hội thảo khoa học của học viên sau đại học năm 2024
- Học viện Ngoại giao: 65 năm nhìn lại một chặng đường
Việc bổ sung mức “thành tích có điều kiện” vào kết quả đánh giá chất lượng chương trình đào tạo, đề xuất bổ sung tiêu chí có điều kiện làm tiêu chí bắt buộc để chương trình đào tạo đạt chuẩn chất lượng là những điểm mới đáng chú ý tại dự thảo Thông tư quy định về đánh giá chất lượng chương trình đào tạo các trình độ giáo dục đại học (sửa đổi Thông tư số 04/2016/TT-BGDĐT về đánh giá chương trình đào tạo trình độ đại học, cao đẳng – gọi tắt là Thông tư 04 và thay thế các Thông tư liên quan).
Bạn đang xem: Đáp ứng 10/10 tiêu chí điều kiện khi kiểm định sẽ là thách thức đối với CSGDĐH
Dự thảo Thông tư mới bao gồm bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng; quy trình và chu trình đánh giá chất lượng chương trình đào tạo. Dự thảo hiện đang nhận được nhiều sự quan tâm của các cơ sở giáo dục đại học.
Tiếp cận mở với các chương trình đào tạo
Trao đổi với Tạp chí Giáo dục điện tử Việt Nam, TS Nguyễn Huy Phúc – Trưởng phòng Khảo thí và Đảm bảo chất lượng, Trường Đại học Công nghiệp TP.HCM chia sẻ, mức “đỗ có điều kiện” đã và đang được các tổ chức kiểm định quốc tế (FIBAA, ABET…) áp dụng.
“Thành tích có điều kiện” xảy ra khi các tiêu chuẩn hoặc tiêu chí của chương trình đào tạo chưa chứng minh/chứng minh được tính bền vững trong quá trình hoạt động. Thời gian cho phép thực hiện các hành động cải tiến của các tổ chức công nhận quốc tế cũng khác nhau, tùy thuộc vào mức độ chương trình đào tạo được cấp là 03 tháng, 06 tháng hoặc 12 tháng…
Dự thảo Thông tư mới đã đề xuất bổ sung mức “Thành tích có điều kiện” (yêu cầu cải thiện chất lượng tối đa trong vòng 18 tháng), đây là cách tiếp cận mở đối với các chương trình đào tạo, để các chương trình có thời gian thực hiện các hành động cải thiện. Và 18 tháng là thời gian tối đa được phép.
Như vậy, chương trình đào tạo có thể cải thiện hoàn toàn các tiêu chuẩn/tiêu chí chưa đạt được trước thời hạn 18 tháng, vì bản chất/nội dung cải thiện của từng hoạt động sẽ đòi hỏi khoảng thời gian khác nhau.
Do đó, thời hạn tối đa là 18 tháng là hợp lý, vì nếu dài hơn thì số liệu thống kê, báo cáo tổng hợp,… có thể thay đổi so với thời điểm đánh giá.
Trao đổi về vấn đề này, Thạc sĩ Lê Ngọc – Phó giám đốc phụ trách Trung tâm Quản lý chất lượng – Trường Đại học Công thương TP.HCM chia sẻ, theo Điều 13 (Quy trình, chu kỳ), Khoản 2 của Dự thảo: Đánh giá chất lượng chương trình đào tạo được thực hiện 5 năm một lần đối với các chương trình đào tạo được đánh giá đạt mức đạt yêu cầu.
Đối với các đơn vị “đạt chuẩn có điều kiện”, có thời hạn 18 tháng (1,5 năm, tương đương 30% chu kỳ kiểm tra) để cải thiện. Theo tôi, thời hạn này là phù hợp để các đơn vị tiếp tục cải thiện chất lượng, không quá ngắn. Các cơ sở giáo dục đại học cần cải thiện chất lượng các tiêu chí chưa đạt trong thời hạn này để được đánh giá lại là đạt chuẩn.
Sinh viên trường Đại học Công thương TP.HCM. Ảnh: Website trường
Theo Thạc sĩ Nguyễn Thị Ngọc Huyền, Phó Trưởng phòng Khảo thí và Đảm bảo chất lượng, Trường Đại học Công nghệ Miền Đông, việc đề xuất bổ sung mức “đỗ có điều kiện” vào dự thảo Thông tư mới để tạo cơ hội cho các cơ sở giáo dục đại học có thời gian hoàn thiện, đáp ứng chuẩn kiểm định là động thái tích cực.
Mười tám tháng là thời gian đủ để các cơ sở giáo dục đại học nhận thức được những thiếu sót của mình và thực hiện những cải tiến cần thiết. Điều này tạo ra đủ áp lực để các trường không bị chậm trễ quá nhiều nhưng vẫn có đủ thời gian để thực hiện những cải tiến cần thiết.
Đồng thời, việc có khung thời gian cụ thể có thể thúc đẩy các trường đại học nhanh chóng triển khai những cải tiến và đổi mới trong chương trình đào tạo, nhằm đạt được mức chất lượng mong muốn.
Do đó, 18 tháng có thể được coi là hợp lý và đủ đối với một số trường đại học nếu họ có kế hoạch cải thiện rõ ràng và quyết tâm thực hiện kế hoạch đó.
Xem thêm : Nhiều tập thể, cá nhân ngành Giáo dục và Đào tạo huyện Quốc Oai được tuyên dương, khen thưởng
Một số thách thức đối với chương trình đào tạo
Ngoài ra, so với Thông tư 04, dự thảo này có 10 tiêu chí, điều kiện là tiêu chí bắt buộc để chương trình đào tạo đạt chuẩn chất lượng. Chương trình đào tạo phải đạt 10/10 tiêu chí, điều kiện để đạt chuẩn chất lượng.
Chia sẻ về điểm mới này, ông Phúc cho biết đây sẽ là thách thức đối với các chương trình đào tạo. Bởi các tiêu chí này, theo báo cáo thống kê từ các trung tâm đánh giá chất lượng trong nước và quốc tế, thường là các tiêu chí mà các chương trình đào tạo chưa đạt hoặc đã đạt nhưng kết quả thấp. Do đó, các chuyên gia đảm bảo chất lượng cho rằng, việc đưa ra các tiêu chí ràng buộc sẽ định hướng các chương trình đào tạo tập trung vào các hoạt động cải thiện tình trạng trên, hướng đến mục tiêu đảm bảo chất lượng các chương trình đào tạo toàn diện.
“Cái khó của các chương trình đào tạo là đo lường chuẩn đầu ra ở cấp độ khóa học và chương trình đào tạo. Hiện nay, chưa có hướng dẫn hay biểu mẫu nào về vấn đề này. Các chương trình đào tạo đang triển khai chủ yếu dựa trên kinh nghiệm kiểm định quốc tế từ yêu cầu của ABET, AUN-QA, FIBAA… Với cách tiếp cận rõ ràng và cải tiến như hiện nay, tôi tin rằng Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ sớm có hướng dẫn cho các cơ sở giáo dục”, ông Phúc chia sẻ.
Theo Thạc sĩ Nguyễn Thị Ngọc Huyền, quy định này sẽ giúp chuẩn hóa chất lượng chương trình đào tạo, đảm bảo sinh viên được học tập trong môi trường chuẩn hóa và nhận được chất lượng giáo dục đồng đều. Điều này cũng góp phần nâng cao uy tín của các cơ sở giáo dục, đồng thời tăng khả năng cạnh tranh của sinh viên trên thị trường lao động.
Tuy nhiên, việc đạt được 10/10 tiêu chí bắt buộc có thể gây áp lực lớn cho các cơ sở giáo dục, đặc biệt là những cơ sở chưa đầu tư đủ vào cơ sở vật chất, đội ngũ giảng viên và chương trình đào tạo.
Việc đáp ứng tiêu chí 10/10 là thách thức lớn đối với các cơ sở giáo dục, đòi hỏi sự đồng bộ từ chuẩn đầu ra đến cấu trúc chương trình, phương pháp giảng dạy và đánh giá kết quả học tập.
Các tổ chức sẽ phải đối mặt với những thách thức trong việc điều chỉnh chương trình giảng dạy, đảm bảo đội ngũ giảng viên có đủ trình độ và duy trì cơ sở vật chất và tài liệu học tập phù hợp. Những yêu cầu nghiêm ngặt này có thể gây áp lực đáng kể về tài chính, con người và thời gian, đồng thời đòi hỏi sự đổi mới liên tục trong quá trình giáo dục và quản lý.
Sinh viên trường Đại học Công nghệ Miền Đông. Ảnh: Website trường
Tuy nhiên, theo bà Huyền, việc thực hiện đầy đủ các tiêu chí này sẽ mang lại lợi ích đáng kể, bao gồm nâng cao chất lượng giáo dục, nâng cao uy tín của cơ sở đào tạo và tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Điều này không chỉ giúp các cơ sở giáo dục thu hút được học viên, đối tác mà còn mở ra cơ hội hội nhập quốc tế, qua đó khẳng định vị thế của mình trong hệ thống giáo dục quốc gia và toàn cầu. Sự minh bạch và nhất quán trong quá trình đánh giá chất lượng cũng giúp xây dựng lòng tin với xã hội và người học.
Ngoài ra, dự thảo Thông tư mới đề xuất 8 tiêu chuẩn với 52 tiêu chí. So với Thông tư 04, bộ tiêu chuẩn mới đã được rút gọn 3 tiêu chuẩn nhưng tăng 2 tiêu chí (Thông tư 04 gồm 11 tiêu chuẩn với 50 tiêu chí).
Chia sẻ về vấn đề này, theo ông Phúc, dự thảo Thông tư mới đã rút gọn 3 tiêu chuẩn, không thực chất là bãi bỏ hoàn toàn các tiêu chuẩn mà sắp xếp lại/phân bổ lại các tiêu chí trong từng tiêu chuẩn, theo chu trình cải tiến chất lượng liên tục Plan-Do-Check-Act.
Có thể thấy, tiêu chuẩn 10 tại Thông tư 04 đã được đưa vào tiêu chí của 8 tiêu chuẩn tại dự thảo Thông tư mới.
Việc đưa tiêu chí liên quan đến đánh giá, đo lường mức độ đạt chuẩn đầu ra ở cấp độ mô-đun và chương trình đào tạo vào dự thảo Thông tư mới là hướng tiếp cận phù hợp với xu hướng kiểm định quốc tế. Đây là một trong những vấn đề mà các chuẩn mực kiểm định quốc tế quan tâm nhất. Do đó, đây cũng là điểm mới, thách thức đối với các chương trình đào tạo.
Sinh viên trường Đại học Công nghiệp TP.HCM. Ảnh: Website trường
Xem thêm : Trao Giải thưởng khoa học công nghệ dành cho giảng viên trẻ và sinh viên
Theo bà Huyền, việc rút ngắn từ 11 chuẩn xuống còn 8 chuẩn giúp các cơ sở giáo dục tập trung hơn vào những nội dung cốt lõi và quan trọng nhất của chương trình đào tạo.
Điều này có thể làm giảm sự phân mảnh và tăng hiệu quả trong việc thực hiện các tiêu chí; Việc giảm tiêu chuẩn có thể giúp đơn giản hóa quá trình công nhận, giúp các trường dễ dàng thực hiện và giám sát các tiêu chí, qua đó nâng cao khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn một cách toàn diện hơn.
Tuy nhiên, mặc dù số lượng tiêu chuẩn đã giảm nhưng số lượng tiêu chí ngày càng tăng và yêu cầu ngày càng khắt khe hơn có thể gây áp lực lớn hơn cho các trường trong việc duy trì và nâng cao chất lượng đào tạo.
Sự thay đổi này đòi hỏi các trường phải điều chỉnh lại quy trình quản lý, đánh giá và phát triển chương trình đào tạo để đáp ứng các yêu cầu mới.
Các trường cần thời gian để thích nghi với các tiêu chuẩn và cấu trúc tiêu chí mới, đặc biệt là trong việc điều chỉnh các quy trình nội bộ và hệ thống đánh giá.
Trao đổi về vấn đề này, theo ông Ngọc, việc thay đổi số tiêu chí lên 52 tiêu chí (tăng 2 tiêu chí), trong đó có 10 tiêu chí với điều kiện rõ ràng để đạt được nhiều tiêu chí thì độ khó cũng tăng theo, tuy nhiên, điều này không gây nhiều khó khăn cho Trường Đại học Công thương TP.HCM.
Việc thay đổi số lượng tiêu chuẩn thành 8 tiêu chuẩn (giảm 3 tiêu chuẩn), mỗi tiêu chuẩn có từ 5 đến 8 tiêu chí; điều kiện để đạt tiêu chuẩn là không có quá 2 tiêu chí không đạt, điều này sẽ có lợi cho nhà trường, vì khả năng đạt tiêu chuẩn sẽ cao hơn.
Bình luận về bản dự thảo
Góp ý dự thảo, Thạc sĩ Nguyễn Thị Ngọc Huyền chia sẻ, dự thảo cần hướng dẫn cụ thể hơn về cách thức đo lường, đánh giá tiêu chí, tránh mơ hồ, đảm bảo tính thống nhất trong quá trình kiểm định giữa các cơ sở giáo dục.
Đồng thời, cần có sự linh hoạt trong việc áp dụng tiêu chí đối với các loại hình cơ sở giáo dục khác nhau, để đảm bảo tính phù hợp và khả thi khi triển khai.
Ngoài ra, đề xuất bổ sung các chính sách hỗ trợ từ cơ quan quản lý nhà nước như: cung cấp văn bản hướng dẫn, tổ chức tập huấn cho các cơ sở giáo dục trong quá trình chuyển đổi, triển khai bộ tiêu chí mới.
Theo bà Huyền, trước khi áp dụng rộng rãi, có thể tổ chức chương trình thí điểm tại một số trường đại học để rút kinh nghiệm và điều chỉnh kịp thời, đảm bảo tính khả thi và hiệu quả của bộ tiêu chuẩn mới.
Theo TS Nguyễn Huy Phúc: “Trường Đại học Công nghiệp TP.HCM đã triển khai chương trình đào tạo theo định hướng OBE từ năm 2016. Hiện nay, Trường có 06 chương trình đào tạo theo chuẩn ABET, 20 chương trình đào tạo theo chuẩn AUN-QA và 10 chương trình đào tạo theo chuẩn chất lượng theo Thông tư 04.
Với sự kế thừa kinh nghiệm và ý kiến đóng góp của các chuyên gia trong nước và quốc tế, các chương trình đào tạo của Khoa hiện đang triển khai các hoạt động đo lường mức độ chuẩn đầu ra ở cấp độ khóa học và chương trình đào tạo.
Tuy nhiên, trong quá trình triển khai vẫn còn một số khó khăn nhất định. Do đó, tôi cũng mong muốn có những hướng dẫn, tập huấn, hội thảo cụ thể từ Bộ Giáo dục và Đào tạo về vấn đề đo lường chuẩn đầu ra.
Thu Trang
https://giaoduc.net.vn/dap-ung-1010-tieu-chi-dieu-kien-khi-kiem-dinh-se-la-thach-thuc-doi-voi-csgddh-post245518.gd
Nguồn: https://truonglehongphong.edu.vn
Danh mục: Giáo Dục