Năm học 2024-2025 là năm thứ 3 chương trình giáo dục phổ thông môn Văn được giảng dạy ở cấp trung học phổ thông. Đây là năm đầu tiên chương trình mới được giảng dạy đồng bộ từ lớp 10 đến lớp 12. Càng dạy, bạn càng thấy chương trình được thiết kế khoa học, kiến thức bám sát cấp lớp hợp lý và có “không gian” cho việc giảng dạy. thành viên “võ thuật”.
- TPHCM: Thi học sinh giỏi lớp 9 môn tích hợp sẽ có phần chung và tự chọn
- PH ý kiến về một số khoản thu đầu năm, Hiệu trưởng THCS Hồng Dụ lý giải ra sao?
- PGS.TS Nguyễn Thanh Chương làm Chủ tịch Hội đồng trường Đại học Giao thông Vận tải
- Chuyên gia cho rằng thành lập Ủy ban Olympic Toán rất quan trọng, cần thiết
- Lai Châu thiếu 751 GV, huyện cần nhưng không tuyển vì có kế hoạch giảm biên chế
Ảnh minh họa.
Kiến thức trải dài từ dễ đến khó, mỗi lớp nối tiếp lớp trước
Môn Văn chương trình giáo dục phổ thông năm 2018 vừa được kế thừa, vừa đổi mới so với chương trình năm 2006 nhằm hướng tới nền giáo dục tiên tiến. Điểm nổi bật của môn học là dạy đọc hiểu văn bản theo thể loại. Kiến thức về một thể loại không tập trung vào một bài học hay một cấp lớp nào mà được trải đều ở các cấp lớp. Các lớp sau được học nâng cao, mở rộng kiến thức của các lớp trước. Giáo viên nắm vững nội dung chung của môn học sẽ nắm vững được nội dung từng bài và đáp ứng chính xác yêu cầu của bài học mà không đòi hỏi áp lực quá cao đối với người học.
Ví dụ, thể loại Thơ trữ tình (bộ sách Những chân trời sáng tạo) được cấu trúc như sau:
Ở lớp 10, học sinh được học những nét cơ bản của Thơ như: chủ đề trữ tình; vần điệu và nhịp điệu; từ ngữ, hình ảnh trong thơ (học kỳ I); tình cảm, cảm xúc trong thơ; Cảm hứng chính trong thơ (học kỳ thứ hai). Các tác phẩm tiêu biểu được chọn để giảng dạy gồm: Hương Phong Cảnh – Chu Mạnh Trinh, Thơ Tình – Xuân Diệu, Mặt Trời Sáng – Vũ Quan Phương, Chiếc Lá Đầu Tiên – Hoàng Nhuận Cẩm, Tây Tiến – Quang Dũng, Nắng Mới – Tề Hành.
Ở lớp 11, học sinh được học một số đặc điểm khó hơn lớp 10 như: Yếu tố tượng trưng, hình thức, kết cấu trong thơ trữ tình. Một số bài thơ tiêu biểu gồm: Nguyệt Cầm – Xuân Diệu, Thời gian – Văn Cao, Gai – Mai Văn Phấn.
Ở lớp 12, người học tiếp tục tìm hiểu những đặc điểm của thơ cổ điển (phong cách cổ điển) và thơ lãng mạn (phong cách lãng mạn); yếu tố, hình ảnh, biểu tượng siêu thực trong thơ trữ tình. Các tác phẩm được lựa chọn đưa vào sách giáo khoa gồm: Hoàng Hạc Lâu – Thời Hiểu, Trang Giang – Huy Cận, Thu Thư – Lưu Trọng Lư, Vĩ Dạ Làng – Hàn Mặc Tử, Lorca's Guitar – Thanh Thao, Freedom – P.Eluja.
Hay đối với thể loại Truyện, chương trình còn cấu trúc kiến thức từ cơ bản đến nâng cao:
Ở lớp 10, học sinh được học một số đặc điểm chung của Truyện như: câu chuyện, cốt truyện, thông điệp, tư tưởng, đặc điểm nhân vật, người kể chuyện, quan điểm. Một số văn bản truyện điển hình minh họa kiến thức ngữ văn như: Đất rừng phương Nam – Đoàn Giới, Giang – Bảo Ninh, Bài học cuối cùng – Alphonse Do-de.
Xem thêm : PGS.TS Nguyễn Thanh Chương làm Chủ tịch Hội đồng trường Đại học Giao thông Vận tải
Ở lớp 11, học sinh được tìm hiểu thêm một số đặc điểm của truyện ngắn hiện đại, tiếp tục, mở rộng kiến thức lớp 10 như: cốt truyện; quan điểm của người thứ ba (toàn trí, hạn chế) và sự thay đổi quan điểm; Nhân vật trong truyện ngắn hiện đại. Một số văn bản truyện được lựa chọn gắn liền với lý luận như: Sương chiều – Bùi Hiển, Muối rừng – Nguyễn Huy Thiệp, Con kiến và người – Trần Duy Phiên. Ngoài ra, người học còn được tìm hiểu về Thơ, Truyện và cách phân biệt chúng với Truyện ngắn.
Ở lớp 12, người học tiếp tục mở rộng một số đặc điểm của thể loại Truyện lãng mạn và hiện thực (Lão Hắc – Nam Cao, Hai Con – Thạch Lâm, Tình cờ gặp gỡ – Hi-gu-chi I -chi-y-ô); Truyện truyền thuyết (Truyện quan phủ Tấn – Nguyễn Du, Trên đỉnh núi Tần – Nguyễn Tuân); Tiểu thuyết hiện đại (Hai quan niệm về gia đình và xã hội (trích Số Đỏ) – Vũ Trọng Phụng, Ở Vasan (trích Hội Chợ Phù Hoa – Uy-liam Thác-cray, ngày 30 Tết (Trích Mùa Lá Rụng Trong Vườn – Ma Văn Khang).
Như vậy, kiến thức của một thể loại được phân bổ theo từng cấp lớp, từ cơ bản đến nâng cao, từ dễ đến khó, phù hợp với từng lứa tuổi của người học. Lớp 10 chỉ cần những đặc điểm cơ bản của thể loại, lớp 11 cần những đặc điểm khó hơn hoặc mở rộng, nâng cao những đặc điểm đã học ở lớp trước, còn ở lớp 12 là khó nhất. , người học được trang bị đầy đủ và đầy đủ kiến thức về từng thể loại. Khi đọc một văn bản, người đọc sẽ xác định được thể loại của văn bản đó nhờ kiến thức về thể loại.
Từ kiến thức văn học đến kiến thức viết (từ đọc đến viết)
Kiến thức lý luận văn học (kiến thức ngữ văn) là cơ sở giúp người học nhận biết được đặc điểm của từng thể loại thông qua hệ thống câu hỏi sau khi đọc một tác phẩm, từ đó, khi tiếp cận một văn bản nào đó, học cách phân biệt, nhận biết các thể loại văn bản. Vì vậy, kiến thức ngữ văn là vô cùng quan trọng, làm cơ sở định hướng cho việc trả lời các câu hỏi sau khi đọc xong văn bản. Người học hiểu được kiến thức văn học sẽ hỗ trợ kiến thức về kỹ năng viết dễ dàng hơn.
Chẳng hạn, trong sách Creative Horizons lớp 10, bài 3, phần Đọc giúp học sinh hiểu được đặc điểm cơ bản của thể loại Thơ, còn ở phần Viết, học sinh được hướng dẫn bài “Viết một bài văn phân tích, phê bình. giá của một bài thơ”. Yêu cầu nội dung của loại văn nghị luận này là phân tích những đặc điểm thơ đã học ở phần Đọc. Ở bài 6, học sinh tiếp tục tìm hiểu thêm một số đặc điểm của thơ. Phần viết dạy bài “Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá tác phẩm trữ tình” (bao gồm thơ trữ tình và văn xuôi trữ tình). Trong bài viết này, nội dung bài viết loại này yêu cầu phải phân tích, kết hợp các đặc điểm thơ ở bài 3 và 6 khi bàn luận về một bài thơ.
Ở lớp 11, học sinh được bổ sung một số nét thơ, phần viết văn có kiểu bài “thảo luận về một tác phẩm văn học (thơ) hoặc tác phẩm nghệ thuật (tranh, tượng)”. Đến đây, học sinh đã có kiến thức đầy đủ về các thể loại thơ nên bài văn nghị luận thơ đòi hỏi những chuẩn mực cao nhất, làm tiền đề cho việc học so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ lớp 12. Xem xét mối quan hệ giữa việc đọc hướng dẫn đọc hiểu và viết, giáo viên sẽ hướng dẫn kỹ phần đọc và khi dạy phần viết phải gắn với nội dung kiến thức đọc hiểu thể loại. Với chương trình cũ, khi thảo luận về thơ, học sinh thường rơi vào tình trạng diễn giải bài thơ. Với chương trình hiện hành, học sinh sẽ biết rằng thảo luận một bài thơ đồng nghĩa với việc làm rõ đặc điểm thể loại thơ trong bài thơ.
Tương tự, ở thể loại Truyện, việc dạy đặc điểm của thể loại Truyện và hướng dẫn viết văn về truyện cũng được kết hợp song song, tạo điều kiện thuận lợi cho người học trong quá trình tiếp thu kiến thức văn học từng bước. Luyện tập kỹ năng viết một loại bài luận, từ dễ đến khó.
Giáo viên có nhiều chỗ để bình luận
Dạy Văn trong chương trình mới không khô khan, thiếu chất lượng văn học; Thầy vẫn có “đất dùng võ” để lớp học thêm sinh động. Từ những khoảng trống “mở” trong sách, giáo viên có thể nhận xét, mở rộng kiến thức cung cấp cho người học.
Chẳng hạn, trong bài 1 Văn 12, cuốn Chân trời sáng tạo, câu hỏi trong bài Xuân Diệu – trích trong Thơ Việt Nam của tác giả Hoài Thanh, Hoài Chân là “miền đất trống” để thầy giải thích. Thơ Xuân Diệu, mở rộng kiến thức phong trào Thơ Mới cho người học:
“Anh ấy đến với chúng tôi với bộ trang phục hiện đại còn chúng tôi thì rụt rè và không muốn đến gần người có vẻ ngoài xa cách đó”. Hãy cùng tìm hiểu thêm về phong cách Thơ Mới để lý giải nhận định này của tác giả đoạn trích.
Xem thêm : Giải bài toán thiếu hụt nhân lực công nghệ thông tin chất lượng cao
Đây là câu hỏi đáp ứng yêu cầu đặt ra: “Vận dụng kiến thức lịch sử văn học và kỹ năng tra cứu để sắp xếp một số tác phẩm, tác giả lớn theo tiến trình lịch sử văn học; biết đặt tác phẩm trong bối cảnh ra đời và hiện tại”. ngữ cảnh để có cách đánh giá phù hợp. Giáo viên cung cấp cho học sinh một số thông tin ngắn gọn về Thơ Mới như: hoàn cảnh xã hội và nhu cầu văn học dẫn đến sự ra đời của phong trào Thơ Mới, đặc điểm của Thơ Mới và một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu. tiêu biểu nhất trong số đó là Xuân Diệu để làm sáng tỏ “quần áo hiện đại” và “hình thức xa xôi”.
Hay câu hỏi sau khi đọc bài thơ Giọng Mùa Thu – Lưu Trọng Lư:
“Đọc bài Thu Vinh (Nguyễn Khuyến). Hãy chỉ ra và giải thích sự khác biệt giữa hai bài hát Thu Vinh và Tiếng Thu ở các khía cạnh sau:
Một. Cách cảm nhận và miêu tả bức tranh mùa thu.
b. Cách thể hiện tình cảm, tâm trạng của chủ thể trữ tình”.
Đây là câu hỏi nhằm nâng cao và mở rộng kiến thức. Giáo viên có thể nhận xét để học sinh đào sâu kiến thức, yêu thích thơ chủ đề mùa thu, củng cố kiến thức về Thơ cổ điển và Thơ lãng mạn.
Tóm lại, chương trình Ngữ văn 2018 giải đáp được nhiều câu hỏi mà chương trình cũ chưa giải đáp được như: Khi đọc một tác phẩm văn học, làm sao biết được thể loại của tác phẩm đó? , Khi phân tích một bài thơ, một tác phẩm truyện, ông phân tích những khía cạnh nào?, Phân tích nhân vật trữ tình và phân tích nhân vật trần thuật có gì khác nhau?,… Phân biệt thế nào? một số khái niệm như: chủ đề, đề tài, nguồn cảm hứng chính, hệ tư tưởng; người kể chuyện, nhân vật, người kể chuyện,…
Khi dạy chương trình mới này, năm đầu tiên tôi khá bỡ ngỡ, nhưng càng tìm hiểu, tôi càng hiểu rõ hơn về luồng kiến thức logic từ lớp 10 đến lớp 12 (và tiếp tục từ cấp THCS), chương trình mới cung cấp kiến thức lý luận văn học cơ bản và đầy đủ nhất (kiến thức ngữ văn) để vận dụng vào luyện tập đọc hiểu.
Chương trình mới kế thừa chương trình cũ nhưng đã mở ra cách tiếp cận dạy và học mới cho bộ môn. Giáo viên sẽ phải đầu tư nhiều hơn, chăm chỉ hơn nhưng cái được lớn nhất là được dạy đúng đặc điểm, bản chất của môn học. Người giáo viên dạy văn không còn lặp lại, giới hạn ở một vài tác phẩm trong sách giáo khoa mà thực sự học hỏi, tìm tòi liên tục cùng tác giả và người học. Bởi vì “Văn học không cần những người thợ khéo léo theo một vài khuôn mẫu nhất định. Văn học chỉ chứa đựng những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khai thác những nguồn cội mà chưa ai tìm tòi, sáng tạo ra những thứ chưa ai có.”( Nam Cao)
Phong cách và nội dung của bài viết thể hiện quan điểm, quan điểm của tác giả.
Trần Văn Tám – Giáo viên Trường THPT Nguyễn Trãi, tỉnh Tây Ninh
https://giaoduc.net.vn/chuong-trinh-ngu-van-thpt-thiet-ke-khoa-hoc-co-dat-cho-gv-dung-vo-post246116.gd
Nguồn: https://truonglehongphong.edu.vn
Danh mục: Giáo Dục