Mục đích của Chuẩn cơ sở giáo dục đại học quy định tại Thông tư 01/2024/TT-BGDĐT được cho là giúp các cơ sở quy hoạch, sắp xếp mạng lưới cơ sở giáo dục đại học; đánh giá, giám sát các điều kiện bảo đảm chất lượng và thực hiện trách nhiệm giải trình của cơ sở giáo dục đại học theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, theo lãnh đạo và đại diện nhiều trường đại học, một số tiêu chí trong Chuẩn cơ sở giáo dục đại học chưa phù hợp với thực tiễn.
- HV Công nghệ Bưu chính Viễn thông lấy điểm chuẩn cao nhất là 26,4 điểm
- Hoài Đức khai mạc và phát động Tuần lễ hưởng ứng học tập suốt đời
- UniHub sắp tổ chức tọa đàm mới về kinh nghiệm đảm bảo chất lượng giáo dục ĐH
- Ngành Thương mại điện tử được đào tạo ra sao để “thực chiến” tốt?
- Có ngành Địa kỹ thuật xây dựng, doanh nghiệp bớt phải tìm nhân lực nước ngoài
Cụ thể, Tiêu chí 5.2 của Tiêu chuẩn 5 – Tuyển sinh và đào tạo quy định: “Tỷ lệ bỏ học, xác định bằng tỷ lệ phần trăm sinh viên chưa tốt nghiệp nhưng không tiếp tục học mỗi năm không cao hơn 10% và đối với sinh viên năm thứ nhất không cao hơn 15%”.
Bạn đang xem: Chuẩn yêu cầu tỷ lệ thôi học dưới 10-15%, trường đại học nói “không cần thiết”
Nhiều trường đào tạo bài bản, chất lượng lại bị phạt một cách vô lý.
Chia sẻ với phóng viên Tạp chí Giáo dục điện tử Việt Nam, ông Phan Thanh Tiến – Phó Trưởng phòng Đào tạo, Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Huế bày tỏ:
“Tôi không hiểu mục đích của việc đặt ra tiêu chí này về tỷ lệ học sinh bỏ học. Bởi vì, theo mô hình đào tạo của nhiều nước trên thế giới, tỷ lệ đầu vào và đầu ra thường theo hình chóp. Ví dụ, tuyển 100 học sinh là bình thường nhưng chỉ có 20 hoặc 30 học sinh. Bởi vì đó là quy tắc của quá trình loại trừ, nếu học sinh nào không đạt năng lực yêu cầu thì sẽ phải bỏ học.
Việc quy định tỷ lệ bỏ học như vậy là khá gượng ép vì nếu các cơ sở đào tạo thực hiện nghiêm ngặt các quy định, đảm bảo chất lượng đầu ra thì tỷ lệ sinh viên bị loại sẽ cao. Tuy nhiên, các trường thực sự tuân thủ các tiêu chuẩn chất lượng như vậy sẽ bị phạt.
Theo ông Tiến, hầu hết các trường đại học vẫn có thể ứng phó với các tiêu chí trên, ví dụ như có thể kiểm soát bằng cách cho điểm cao để tất cả sinh viên đều có thể lên lớp tiếp theo để đáp ứng các quy định. Điều này không khác gì “không biết đọc, biết viết nhưng vẫn có thể lên lớp tiếp theo”.
Sinh viên trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Huế (Ảnh: Website của trường).
Ông Tiến thông tin, hiện nay tỷ lệ bỏ học ở từng ngành của Trường ĐH Ngoại ngữ, ĐH Huế có sự khác nhau, có ngành dưới 5% nhưng cũng có ngành lên tới 20-25%.
Một trong những lý do chính khiến sinh viên bỏ học trong năm đầu tiên thường là vì họ chọn sai chuyên ngành. Những lý do khác bao gồm chuyên ngành quá khó so với khả năng, hoàn cảnh gia đình, v.v.
Theo ông Tiến, có thể thấy định hướng nghề nghiệp ở bậc phổ thông rất quan trọng. Tuy nhiên, công tác này hiện nay còn yếu, phần lớn học sinh chưa biết các trường đại học hiện đang đào tạo như thế nào. Nhiều học sinh chưa hình dung được các ngành học ở bậc đại học như thế nào, chưa hiểu ngành học mình chọn có thực sự phù hợp hay không.
Do đó, không cần thiết phải điều chỉnh tỷ lệ bỏ học của sinh viên theo Tiêu chuẩn của Cơ sở giáo dục đại học.
Để giảm tỷ lệ này, ông Tiến cho rằng cần tập trung vào việc định hướng nghề nghiệp và giáo dục ngay từ bậc phổ thông cho học sinh.
Xem thêm : Trường nào GV “ép” học sinh học thêm, hiệu trưởng mất chức sẽ có tác dụng răn đe
Tất nhiên, bản thân trường đại học cũng phải tái cấu trúc và điều chỉnh cơ cấu các ngành học của mình sao cho phù hợp hơn với xu hướng và nhu cầu của xã hội. Đối với các ngành học có đầu ra hạn chế như khoa học cơ bản, phải có cơ chế cụ thể và đầu tư, hỗ trợ riêng để thu hút sinh viên có năng lực thực sự phù hợp. Tránh tình trạng các ngành học đòi hỏi năng lực nghiên cứu cao nhưng đầu vào thấp, dẫn đến nhiều sinh viên không trụ được và phải bỏ học.
Ngoài ra, đối với tiêu chí 5.3 của Chuẩn 5, quy định: “Tỷ lệ tốt nghiệp, được xác định bằng tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp trong thời gian chậm hơn không quá 2 năm so với kế hoạch học tập chuẩn, không thấp hơn 60%; tỷ lệ tốt nghiệp đúng hạn không thấp hơn 40%”. Ông Tiến bày tỏ rằng quy định này khá thừa vì hiện nay ngày càng nhiều trường xây dựng chương trình đào tạo có thể tốt nghiệp chỉ trong 3 – 3,5 năm, để đáp ứng nhu cầu của sinh viên và thị trường lao động. Do đó, chúng ta nên quan tâm hơn và khuyến khích tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp sớm hơn là đúng hạn.
Các trường đại học rất khó kiểm soát được tỷ lệ sinh viên bỏ học.
Trao đổi về vấn đề này, PGS.TS Huỳnh Quyên – Hiệu trưởng Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường TP.HCM cho biết, tình trạng bỏ học của sinh viên năm nhất phụ thuộc vào nhiều lý do khách quan. Với xu hướng tuyển sinh hiện nay, nhiều trường đã gần đủ chỉ tiêu tuyển sinh theo phương thức 2 (xét theo kết quả học tập THPT), chỉ còn lại một số ít chỉ tiêu tuyển sinh theo phương thức 1 (xét theo kết quả thi tốt nghiệp THPT). Do đó, điểm chuẩn của phương thức 1 cao hơn so với dự kiến cũng như các năm trước.
Điều này dẫn đến hiện tượng nhiều sinh viên năm nhất tạm thời đăng ký vào một trường đại học, chuyên ngành mà họ không mong muốn, sau đó bỏ học để thi lại hoặc đi du học, làm việc ở nước ngoài, v.v.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Huỳnh Quyên – Hiệu trưởng Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường TP.HCM (Ảnh: Website trường).
Hơn nữa, nhiều sinh viên ngày nay vẫn chọn ngành học dựa trên cảm tính; nghe quảng cáo về một số xu hướng chính… Ví dụ, có những sinh viên năm nay học ngành A nhưng sang năm, khi thấy ngành B hot hơn, họ bỏ ngành A để chọn ngành B. Và việc họ bỏ học nửa năm hoặc một năm như vậy là rất bình thường. Nguyên nhân của thực tế này cũng liên quan đến công tác dự báo ngành học và nghề nghiệp của chúng ta còn hạn chế.
Theo ông Quyền, nếu đã là chuẩn thì các trường phải là người quyết định và kiểm soát việc thực hiện chuẩn đó. Tuy nhiên, chuẩn về tỷ lệ bỏ học, nhất là đối với sinh viên năm thứ nhất và năm thứ hai, các trường rất khó thực hiện vì không thể kiểm soát được.
Khi chọn sai ngành, nghề hoặc không phù hợp với sở thích, năng khiếu, sau khi học được nửa năm, một năm, sinh viên bỏ học, đó là trách nhiệm của toàn xã hội. Do đó, không thể quy trách nhiệm này cho các cơ sở giáo dục đại học.
Ông Quyền cho rằng khi xây dựng bất kỳ tiêu chuẩn nào, chúng ta phải đảm bảo quy định đó phản ánh được sự hài hòa về trách nhiệm của các bên liên quan.
Để giảm tỷ lệ học sinh bỏ học, theo ông Quyền, công tác tuyển sinh, hướng nghiệp ngay từ đầu, trước khi học sinh chọn ngành, chọn trường phải làm tốt hơn, thể hiện trách nhiệm của toàn xã hội, trong đó có sự tham gia của các đơn vị liên quan khác vào dự báo nghề nghiệp (các bộ, ngành, doanh nghiệp liên quan) chứ không chỉ riêng các cơ sở giáo dục đại học.
Tỷ lệ bỏ học khác nhau tùy theo chương trình đào tạo.
Xem thêm : Tính định mức GV trung học vùng 3, 45 HS/lớp, nhiều nơi phòng học quá chật chội
Theo ông Lê Xuân Trường – Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Mở TP.HCM, khi xây dựng Chuẩn chất lượng giáo dục đại học, điều tất yếu là ngành giáo dục muốn hướng đến một nền giáo dục chất lượng, tuy nhiên vẫn còn một số quy định chưa thực sự sát với thực tế hiện nay.
Ví dụ, về quy định về tỷ lệ bỏ học, theo ông Trường, mức độ khó khăn giữa các chương trình đào tạo của các ngành khác nhau để sinh viên có thể học tập vốn đã khác nhau. Do đó, tỷ lệ bỏ học của từng ngành trên thực tế cũng không giống nhau. Trên thực tế, một số ngành hiện nay khó đáp ứng được tỷ lệ này.
Tất nhiên, khi đó là điều kiện bắt buộc, một số trường có thể dễ dàng cho học sinh lên lớp tiếp theo để đạt được tỷ lệ này, nhưng điều này sẽ làm tăng tỷ lệ thất nghiệp. Bởi vì, khi đó, chất lượng đầu ra của con người không đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp, nơi sử dụng lao động. Và điều này sẽ gây ra tiêu cực cho ngành đào tạo.
Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh trong buổi tư vấn tuyển sinh (Ảnh: Website trường).
Hơn nữa, ngay cả khi nhà trường muốn giữ học sinh lại, nếu các em thấy mình không đáp ứng được yêu cầu của chương trình hoặc học tập không tốt, các em sẽ bỏ học.
Không những vậy, đầu vào của mỗi trường hiện nay khác nhau, có sự phân hóa rõ ràng, nhưng chúng tôi đưa ra con số chung là tỷ lệ bỏ học như nhau giữa các trường, giữa các ngành đào tạo không cao hơn 10% và đối với sinh viên năm nhất không cao hơn 15% nên cần xem xét lại.
Tại Trường Đại học Mở TP.HCM, các ngành kinh tế, xã hội gần như đã đạt chuẩn đầu ra của Bộ GD-ĐT. Còn các ngành kỹ thuật, cần phấn đấu nhiều hơn nữa để đạt chuẩn vì yêu cầu về kỹ năng, kiến thức cũng khó hơn.
Trước thực trạng trên, ông Trường cho rằng nhà trường phải có trách nhiệm trong việc giảm tỷ lệ bỏ học này, tuy khó có thể thực hiện ngay được nhưng cần phải từng bước cải thiện để đạt chuẩn chất lượng.
Ngoài ra, để giảm tỷ lệ học sinh bỏ học, cần có giải pháp toàn diện như các trường đại học cần xây dựng và thiết kế chương trình đào tạo phù hợp với năng lực của sinh viên; chú trọng chăm sóc sinh viên, nâng cấp cơ sở vật chất để tạo môi trường học tập tốt nhất cho các em. Ngoài ra, bản thân sinh viên phải có thái độ và ý chí học tập chăm chỉ vì chương trình đại học không hề dễ dàng, ngay cả một sinh viên thông minh mà không nỗ lực thì cũng khó có thể học tốt.
Mặt khác, việc định hướng nghề nghiệp trước khi vào đại học phải được thực hiện tốt, đúng đắn và lành mạnh hơn. Tránh tình trạng nhiều sinh viên chọn học chỉ vì ngành học hot, trường hot, phải vào để theo kịp bạn bè, nhưng khi bắt đầu học thì không theo kịp, hoặc vì không thích nên lười học, không muốn cố gắng. Thực tế, có những sinh viên học ngành học hot, nhu cầu xã hội cao, nhưng đôi khi đến năm thứ 2, năm thứ 3 lại chuyển sang ngành học khác, trường đại học khác.
Bên cạnh đó, theo ông Trường, tỷ lệ tốt nghiệp đúng hạn theo quy định tại Chuẩn đầu ra của các cơ sở giáo dục đại học cũng là vấn đề cần quan tâm vì tỷ lệ này còn phụ thuộc vào tình hình thực tế của từng ngành đào tạo.
Tường San
https://giaoduc.net.vn/chuan-yeu-cau-ty-le-thoi-hoc-duoi-10-15-truong-dai-hoc-noi-khong-can-thiet-post245056.gd
Nguồn: https://truonglehongphong.edu.vn
Danh mục: Giáo Dục