Thông tư số 01/2024/TT-BGDĐT về Tiêu chuẩn cơ sở giáo dục đại học sẽ chính thức áp dụng đối với các cơ sở giáo dục đại học từ năm 2025. Đây được coi là thước đo tối thiểu mà các cơ sở giáo dục đại học phải đạt được để được xác định là đạt chuẩn chất lượng. Tuy nhiên, cho đến nay, nhiều tiêu chuẩn, tiêu chí nêu trong Thông tư vẫn là bài toán “bí ẩn” đối với nhiều cơ sở giáo dục đại học.
- Hà Nội sẽ có thêm 2 trường trung học phổ thông chuyên
- Ngày 27-8, công bố phương án tiếp nhận học sinh vào Trường Tiểu học Tây Mỗ 3
- Trao học bổng cho 200 học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn
- Hơn 54.000 thí sinh Hà Nội đã đăng ký dự thi tốt nghiệp THPT
- THCS Giảng Võ gắn biển “Trường có chương trình dạy tiếng Pháp đạt chuẩn quốc tế”
Đặc biệt, quy định ít nhất 70% giảng viên toàn thời gian phải có không gian làm việc riêng, tối thiểu 6m2/giảng viên là một trong những khó khăn, thách thức lớn đối với nhiều trường.
Bạn đang xem: Chuẩn yêu cầu GV toàn thời gian được bố trí 6m2/thầy cô, trường đại học kêu khó
Một trong những “điểm nghẽn” của vấn đề này nằm ở quỹ đất hạn hẹp, không có khả năng “mở rộng” thêm cho các trường đại học, nhất là những trường nằm ở khu vực nội thành có lịch sử xây dựng lâu đời.
Chúng ta nên hiểu thế nào về nơi làm việc của giảng viên?
Chia sẻ với phóng viên Tạp chí Giáo dục điện tử Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lâm Nhân – Hiệu trưởng Trường Đại học Văn hóa TP.HCM cho biết, đặc điểm chung của các trường đào tạo văn hóa nghệ thuật thường nằm ở trung tâm thành phố để sinh viên vừa học vừa thực hành.
Mặt khác, nếu chúng ta có thể xin thêm đất ở những khu vực xa trung tâm như Củ Chi (huyện ngoại thành TP.HCM), hay các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương,… thì việc tuyển sinh cũng sẽ rất khó khăn.
“Bản chất đào tạo nghệ thuật là gắn liền với thực hành, sinh viên vừa học vừa kết hợp biểu diễn để rèn luyện kỹ năng. Hầu hết các sự kiện văn hóa nghệ thuật đều được tổ chức tại khu vực trung tâm, trong khi các vùng ngoại ô rất ít. Do đó, nếu trường ở vùng ngoại ô, sẽ rất khó tuyển sinh”, vị lãnh đạo này phân tích.
Khuôn viên trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: website trường
Theo PGS Lâm Nhân, việc bố trí đủ 6m2 phòng học cho mỗi giảng viên theo quy định tại Thông tư 01 trong điều kiện hiện nay của trường là rất khó khăn.
“Giảng viên có không gian làm việc riêng là hợp lý, nhưng nhà trường rất khó có thể có 6m2 cho mỗi người. Hơn nữa, cơ sở vật chất đã xây dựng xong, nguồn lực để xây dựng thêm cũng là bài toán khó”, Hiệu trưởng Trường Đại học Văn hóa TP.HCM cho biết.
Trong khi đó, lãnh đạo một trường đại học ở miền Bắc nhấn mạnh cần làm rõ nội dung và định nghĩa về “nơi làm việc” của giảng viên. Theo vị lãnh đạo này, phần lớn giảng viên dành thời gian ở giảng đường, phòng thí nghiệm,… Do đó, nơi làm việc của giảng viên cần được tính toán kết hợp không gian giảng đường, phòng thí nghiệm, thư viện, phòng làm việc của khoa,…
Xem thêm : Huyện Phú Xuyên vẫn khó khăn về cơ sở vật chất trường học công lập
“Chúng ta không nên áp dụng một cách máy móc và cứng nhắc việc bố trí khu vực riêng biệt 6m2 cho mỗi giảng viên. Trên thực tế, hầu hết giảng viên đều dành thời gian ở giảng đường hoặc phòng thí nghiệm, do đó, việc bố trí khu vực riêng biệt 6m2 cho mỗi giảng viên có thể gây lãng phí”, vị lãnh đạo này nêu.
Do đó, lãnh đạo đề xuất tạo điều kiện linh hoạt cho các cơ sở giáo dục đại học, tránh rập khuôn, máy móc khi áp dụng bộ chuẩn vào các trường.
“Điều quan trọng hơn cần tập trung để nâng cao chất lượng giảng dạy cho giảng viên là tạo môi trường lành mạnh để giáo viên học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, có điều kiện tích lũy và phát triển bản thân”, vị lãnh đạo nêu rõ.
Không nên quy định chặt chẽ 6m2/người.
Trao đổi về vấn đề này, TS Phạm Hiệp – Trưởng nhóm nghiên cứu đổi mới giáo dục, Trường Đại học Thành Đô bày tỏ sự đồng tình về nhu cầu cung cấp không gian làm việc đầy đủ cho giảng viên. Tuy nhiên, TS Phạm Hiệp cũng cho rằng không nên có quy định “cứng nhắc” tối thiểu 6m2 cho mỗi giảng viên.
“Thực tế, từ lâu, các chuyên gia đã có bàn làm việc, nhưng giảng viên thì không. Trong khi đó, giảng viên là người cung cấp dịch vụ chính tại các trường đại học”, TS Phạm Hiệp nêu quan điểm.
Minh họa: VNU
Nhắc lại kinh nghiệm thực tế, TS Phạm Hiệp chia sẻ một số bất tiện khi các trường đại học không có không gian làm việc riêng cho giảng viên.
“Có những lúc tôi muốn để máy tính xách tay ở trường để khỏi phải mang theo bên mình, nhưng lại không có chỗ để vì không có khu vực làm việc riêng cho từng giảng viên, phòng chờ giảng viên cũng không có bàn làm việc hay tủ đựng đồ riêng”, TS. Phạm Hiệp chia sẻ.
Ngoài thời gian ngồi trên giảng đường, giảng viên còn nhiều nhiệm vụ khác như soạn giáo án, nghiên cứu khoa học, giao tiếp với sinh viên, tham gia hoạt động chuyên môn,… Do đó, TS Phạm Hiệp cho rằng việc nhà trường bố trí không gian làm việc cho giảng viên là hợp lý.
Tuy nhiên, Trưởng nhóm nghiên cứu cũng cho rằng chỉ cần bố trí đủ số lượng bàn ghế cho mỗi giảng viên, vấn đề diện tích cụ thể cần linh hoạt để tạo điều kiện cho các cơ sở giáo dục đại học bố trí theo điều kiện thực tế của từng trường.
Xem thêm : Ngăn chặn dịch bệnh lây lan trong trường học
“Về diện tích mỗi khu vực làm việc của giảng viên, chúng ta có thể cân nhắc bố trí 2-3 giảng viên cùng một vị trí cho mỗi đơn vị, vì giảng viên không phải ngày nào cũng lên lớp.
Nhưng trong tương lai, các giáo sư, phó giáo sư phải có phòng làm việc riêng, để giáo viên có không gian làm việc, trao đổi kiến thức chuyên môn, hướng dẫn nghiên cứu sinh, tiếp khách… Phòng làm việc không cần quá rộng, từ 7-10m2, thậm chí 6m2. Có thể bố trí 1 người/phòng hoặc 2 người/phòng, tùy theo điều kiện của từng trường.
Điều này giúp tạo không gian riêng tư, thể hiện sự tôn trọng, tạo môi trường thuận lợi nhất cho sự sáng tạo học thuật của giáo sư, phó giáo sư”, TS Phạm Hiệp chia sẻ.
Chia sẻ thêm, Trưởng nhóm nghiên cứu cho biết, tại một số quốc gia trên thế giới, giáo sư, phó giáo sư đều có phòng làm việc riêng. Giảng viên trẻ, nghiên cứu sinh sẽ được bố trí ngồi thành từng dãy bàn có ngăn chứa đồ riêng, máy in, khu vực nghỉ ngơi, bếp để hâm nóng thức ăn hoặc pha nước, pha cà phê…
Ngoài yêu cầu về nơi làm việc của giảng viên, quy định về tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ, tính trên số giảng viên cơ hữu cũng là bài toán khó đối với nhiều trường.
Thông tư 01 quy định tỷ lệ giảng viên cơ hữu có trình độ tiến sĩ không thấp hơn 20% và từ năm 2030 không thấp hơn 30% đối với các cơ sở giáo dục đại học không đào tạo trình độ tiến sĩ; không thấp hơn 5% và từ năm 2030 không thấp hơn 10% đối với các trường đào tạo chuyên ngành không đào tạo trình độ tiến sĩ;
Tỷ lệ giảng viên cơ hữu có trình độ tiến sĩ không thấp hơn 40% và từ năm 2030 không thấp hơn 50% đối với các cơ sở giáo dục đại học có đào tạo trình độ tiến sĩ; không thấp hơn 10% và từ năm 2030 không thấp hơn 15% đối với các trường chuyên ngành có đào tạo trình độ tiến sĩ.
Phó Giáo sư Lâm Nhân cho biết đây cũng là thách thức lớn đối với các trường đào tạo chuyên ngành như văn hóa, nghệ thuật.
Chia sẻ thêm về một số khó khăn từ quy định hiện hành, hiệu trưởng cho biết, trước đây, Nghị định 141/2013/NĐ-CP cho phép giảng viên có chức danh giáo sư, phó giáo sư, giảng viên có trình độ tiến sĩ công tác tại cơ sở giáo dục đại học được kéo dài thời gian công tác từ 5-10 năm là hợp lý.
Tuy nhiên, Nghị định 50/2022/NĐ-CP không còn cho phép giảng viên tiến sĩ được gia hạn thời hạn 5 năm như trước nữa. Giảng viên có chức danh giáo sư, phó giáo sư cũng chỉ được gia hạn thời hạn 5 năm, đây là sự lãng phí chất xám rất lớn.
Theo PGS Lâm Nhân, đào tạo tiến sĩ trong lĩnh vực nghệ thuật không dễ, đào tạo giáo sư, phó giáo sư lại càng khó hơn. Do đó, đây là sự lãng phí chất xám rất lớn.
Đoàn Nhân
https://giaoduc.net.vn/chuan-yeu-cau-gv-toan-thoi-gian-duoc-bo-tri-6m2thay-co-truong-dai-hoc-keu-kho-post245257.gd
Nguồn: https://truonglehongphong.edu.vn
Danh mục: Giáo Dục