Từ 29 giáo sư đầu tiên vào năm 1976, hiện nay Việt Nam có hơn 16.000 giáo sư, phó giáo sư.
- Học sinh có thể không được cộng điểm học nghề trong xét tốt nghiệp THPT
- Giáo viên ISHCMC phát sách có nội dung nhạy cảm: Sở yêu cầu các trường rà soát
- Trường nghề mong về Bộ Giáo dục và Đào tạo càng sớm càng tốt
- Học Răng Hàm Mặt nhận bằng BS nha khoa: Ít nhiều giảm niềm tin vào ĐH Duy Tân
- Quận Bắc Từ Liêm khen thưởng 100 học sinh giỏi tiêu biểu
Nhà nước ta chủ trương phong hàm giáo sư, phó giáo sư từ năm 1976, căn cứ Quyết định số 162-CP ngày 11/9/1976 của Hội đồng Chính phủ về hệ thống chức danh khoa học và tiêu chuẩn chức danh. Dịch vụ khoa học trong lĩnh vực giảng dạy đại học và nghiên cứu khoa học. Theo đó, 29 nhà giáo, nhà khoa học xuất sắc đã được nhà nước phong tặng danh hiệu giáo sư đầu tiên ở Việt Nam.
Bạn đang xem: Chỉ một nửa số GS, PGS được công nhận hàng năm làm việc toàn thời gian ở CSGDĐH
Phiên họp thứ hai của Hội đồng Giáo sư Nhà nước nhiệm kỳ 2024-2029. Ảnh: HDGSNN
Sau đợt phong hàm giáo sư đầu tiên, năm 1980, Chính phủ chính thức tổ chức xét, công nhận chức danh giáo sư, phó giáo sư. Từ năm 1980 đến năm 1997, Chính phủ đã 9 lần tổ chức xét công nhận giáo sư, phó giáo sư đủ tiêu chuẩn.
Tháng 5 năm 2001, Chính phủ ban hành Nghị định số 20/2001/ND-CP quy định tiêu chuẩn, thủ tục bổ nhiệm, miễn nhiệm chức danh giáo sư, phó giáo sư. Theo Nghị định này, việc công nhận chức danh giáo sư, phó giáo sư được thực hiện hàng năm.
Từ đó đến nay, quá trình công nhận chức danh giáo sư, phó giáo sư ở nước ta trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, với nhiều điều chỉnh, thay đổi trong quy chế phê duyệt.
Hiện nay, các quy định về tiêu chuẩn, thủ tục công nhận, bổ nhiệm chức danh giáo sư, phó giáo sư được áp dụng theo Quyết định số 37/2018/QĐ-TTg và Quyết định số 25/2020/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều số điều trong Quyết định 37.
Trước đây, việc xét công nhận chức danh giáo sư, phó giáo sư được thực hiện theo Quyết định số 174/2008/QĐ-TTg ngày 31/12/2008 của Thủ tướng Chính phủ ban hành quy định về tiêu chuẩn, thủ tục. Thủ tục bổ nhiệm, miễn nhiệm chức danh giáo sư, phó giáo sư.
So với Quyết định 174, Quyết định 37 có nhiều điểm mới và được đánh giá là chặt chẽ, khắt khe hơn trước. Cũng từ thời điểm này, số lượng giáo sư, phó giáo sư được xét duyệt qua các năm đều giảm so với giai đoạn trước. Tuy nhiên, trong 2 năm trở lại đây, số lượng giáo viên được công nhận đủ tiêu chuẩn chức danh giáo sư, phó giáo sư có xu hướng tăng trở lại.
Đến cuối năm 2024, Hội đồng Giáo sư Nhà nước đã công nhận hơn 16.200 giáo viên đủ tiêu chuẩn chức danh giáo sư, phó giáo sư. [1]
Chỉ trong 5 năm qua (2020-2024), cả nước có khoảng 2.329 giáo viên được công nhận đủ tiêu chuẩn chức danh giáo sư, phó giáo sư. Trong đó có 216 giáo sư và 2.113 phó giáo sư, số lượng phó giáo sư gấp khoảng 9,8 lần số lượng giáo sư.
Như vậy, trong 5 năm qua, bình quân mỗi năm nước ta có khoảng 465 giáo viên đạt chức danh giáo sư, phó giáo sư.
Đáng nói, theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, năm 2020, nước ta có khoảng 5.213 giảng viên chính quy với chức danh giáo sư, phó giáo sư. Đến năm 2024, con số này sẽ là 6.372, tăng 1.159 giáo viên. Như vậy, trung bình mỗi năm, hệ thống giáo dục đại học Việt Nam tuyển thêm khoảng 231 giáo sư, phó giáo sư chính quy – con số này chỉ bằng khoảng một nửa số giáo viên. được công nhận hàng năm.
Ít hơn 1% giảng viên toàn thời gian có chức danh giáo sư
Về chi tiết đội ngũ, theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đến năm 2024, cả nước sẽ có khoảng 2.068.522 sinh viên (tính đến tháng 8/2024), 91.297 giảng viên chính quy đang công tác tại các cơ sở. giáo dục đại học – tăng khoảng 2.900 giảng viên so với năm 2023. Trong đó có 743 giáo sư, 5.629 phó giáo sư và 23.776 tiến sĩ. (Dữ liệu công cộng Hội nghị Giáo dục Đại học 2024).
Theo số liệu mới nhất của Tổng cục Thống kê, đến năm 2024, dân số Việt Nam ước đạt khoảng 100 triệu người. Vậy hãy tìm ra nó, Trên 10.000 dân, Việt Nam chỉ có 0,74 giáo sư và 5,63 phó giáo sư, tổng số 6.372 người. Con số này cho thấy số lượng giảng viên có chức danh giáo sư, phó giáo sư vẫn còn rất ít so với dân số cả nước.
Xét về số lượng sinh viên, Tỷ lệ giáo sư trên 100 sinh viên chỉ là 0,04 người, phó giáo sư là 0,27 người, tổng cộng là 0,31 người.; Tức là cứ 100 sinh viên thì có ít hơn 1 người được giảng dạy bởi một giảng viên có chức danh giáo sư hoặc phó giáo sư.
Xét về số lượng giảng viên đại học toàn thời gian (91.297 người), tỷ lệ giáo sư, phó giáo sư trên 100 giảng viên là 0,81 và 6,17, tổng cộng là 6,98 người. Đó là Ít hơn 1% giảng viên toàn thời gian có chức danh giáo sưvà tỷ lệ giáo sư, phó giáo sư ở Việt Nam hiện chỉ chiếm khoảng 7% tổng số giảng viên.
Bảng số liệu cho thấy số lượng giảng viên chính quy có trình độ giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ đang công tác tại các cơ sở giáo dục đại học có xu hướng tăng; Tuy nhiên, tỷ lệ giáo sư, phó giáo sư đang công tác tại các cơ sở giáo dục đại học nhìn chung vẫn còn khá khiêm tốn, đặc biệt khi xét đến dân số hiện nay khoảng 100 triệu người. Điều này đặt ra thách thức lớn trong việc xây dựng đội ngũ giảng viên có trình độ cao, đủ khả năng đáp ứng yêu cầu giảng dạy và nghiên cứu trong bối cảnh hội nhập.
Trên thực tế, nâng cao chất lượng giảng viên, cán bộ quản lý của các cơ sở giáo dục đại học là một trong những vấn đề luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước, được thể hiện qua nhiều dự án đào tạo tiến sĩ. : Dự án 322, Dự án 911 và gần đây nhất là Dự án 89.
Trong những năm gần đây, các cơ sở giáo dục đại học cũng ngày càng chú trọng và tích cực thúc đẩy việc phát triển đội ngũ nhân viên có trình độ cao, chuyên môn cao. Đặc biệt, nhiều trường đại học sẵn sàng chi hàng trăm triệu đồng để thu hút giảng viên tiến sĩ, giáo sư, phó giáo sư về làm việc hoặc đào tạo giảng viên theo học các chương trình tại cơ sở giáo dục. các trường đại học danh tiếng trên thế giới.
Ngày 5 tháng 2 năm 2024, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Thông tư 01/2024/TT-BGDDT về Tiêu chuẩn cơ sở giáo dục đại học. Theo đó, để đáp ứng chuẩn cơ sở giáo dục đại học, các trường cần đảm bảo tỷ lệ giảng viên chính quy có trình độ tiến sĩ không thấp hơn 20% và từ năm 2030 không thấp hơn 30% đối với các cơ sở giáo dục. Đại học không đào tạo tiến sĩ; không thấp hơn 40% và từ năm 2030 không thấp hơn 50% đối với cơ sở giáo dục đại học có trình độ tiến sĩ.
Phát triển đội ngũ nhà giáo cũng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, đột phá được Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo tại Công văn số 4606/BGDDT-GDDH gửi các trường đại học, học viện, trường đại học; Các trường cao đẳng sư phạm về thực hiện nhiệm vụ năm học 2024-2025 đối với giáo dục đại học và cao đẳng sư phạm. Cụ thể là đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng, thu hút và phát triển đội ngũ giảng viên, nhà khoa học, chuyên gia đầu ngành có trình độ chuyên môn cao, đặc biệt ở một số ngành, lĩnh vực trọng điểm. chốt, công nghệ cao.
29 nhà giáo, nhà khoa học xuất sắc được Nhà nước phong tặng danh hiệu giáo sư đầu tiên ở nước ta bao gồm:
1. Đào Duy Anh (Lịch sử) | 11. Đặng Vũ Hy (Y học) | 21. Lê Văn Thiêm (Toán học) |
2. Tạ Quang Bửu (Toán học) | 12. Đặng Thái Mai (Văn học) | 22. Phạm Huy Thông (Lịch sử) |
3. Đặng Văn Chung (Y học) | 13. Trần Đại Nghĩa (Cơ khí) | 23. Nguyễn Khánh Toàn (Lịch sử) |
4. Lương Định Của (Nông học) | 14. Nguyễn Xuân Nguyên (Y học) | 24. Hoàng Tích Trí (Y học) |
5. Hồ Đắc Di (Y học) | 15. Đặng Văn Ngữ (Y học) | 25. Ngụy Như Kom Tum (Vật lý) |
6. Trần Văn Giàu (Lịch sử) | 16. Đặng Văn Nội (Y học) | 26. Tôn Thất Tùng (Y học) |
7. Nguyễn Hoàn (Hóa học) | 17. Trương Công Quyền (Y học) | 27. Trần Hữu Tước (Y học) |
8. Vũ công Hòe (Y học) | 18. Phạm Ngọc Thạch (Y học) | 28. Nguyễn Mạnh Tường (Văn học) |
9. Đỗ Xuân Hợp (Y học) | 19. Trần Đức Thảo (Triết học) | 29. Trương Túu (Văn học) |
10. Nguyễn Văn Huyền (Lịch sử) | 20. Đinh Văn Thắng (Y học) |
Tài liệu tham khảo:
[1]: https://moet.gov.vn/tintuc/Pages/tin-tong-hop.aspx?ItemID=4337
Đoàn Nhân
https://giaoduc.net.vn/chi-mot-nua-so-gs-pgs-duoc-cong-nhan-hang-nam-lam-viec-toan-thoi-gian-o-csgddh-post247425.gd
Nguồn: https://truonglehongphong.edu.vn
Danh mục: Giáo Dục