Trong nhiều năm qua, tại địa phương nơi tác giả công tác (một tỉnh thuộc Duyên hải Nam Trung Bộ), sĩ số học sinh tiểu học/lớp không quá 35 học sinh, sĩ số học sinh trung học cơ sở/lớp không quá 45 học sinh.
- AsiaMeets 2024: Cầu nối văn hóa và thiết kế của nhiều quốc gia Châu Á
- Phát động phong trào tập luyện môn bơi trong trường học
- Tuyệt đối không tổ chức khai giảng ở nơi có nguy cơ sạt lở, ngập úng
- Có ý kiến băn khoăn về đề thi HSG lớp 9 môn KHTN, Phòng Giáo dục Quận 5 lý giải
- Không vận động học sinh mua xuất bản phẩm tham khảo
Tuy nhiên, khi áp dụng Thông tư 20/2023/TT-BGDĐT quy định số lượng học sinh theo vùng còn nhiều bất cập, gây khó khăn cho các trường trong việc sắp xếp học sinh và ảnh hưởng đến quyền lợi của giáo viên.
Bạn đang xem: Bất cập khi lấy bình quân học sinh/lớp để tính định mức biên chế giáo viên
Số học sinh tiểu học ở khu vực 3 là 35 học sinh/lớp (Ảnh của tác giả)
Thông tư 20/2023/TT-BGDĐT quy định số lượng học sinh như thế nào?
Tại Khoản 1 Điều 3 Thông tư số 20/2023/TT-BGDĐT quy định về phân vùng để tính định mức giáo viên như sau:
“a) Khu vực 1: Các xã thuộc Khu vực II, Khu vực III theo quy định hiện hành ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi; các xã đặc biệt khó khăn vùng ven biển; các xã có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn; các xã đảo, hải đảo xa bờ, xã biên giới, xã an toàn khu theo quy định của Chính phủ;
b) Vùng 2: Các xã thuộc vùng I (trừ phường, thị trấn) theo quy định hiện hành thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi;
c) Khu vực 3: Các phường, thị trấn thuộc Khu vực I theo quy định hiện hành thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi và các xã, phường, thị trấn còn lại.
Khoản 2 Điều 3 quy định số lượng học sinh/lớp theo vùng làm căn cứ phân công, phê duyệt số lượng biên chế trong cơ sở giáo dục phổ thông. Theo đó:
Xem thêm : HS Quảng Ninh hoàn thành xong bài thi Ngữ văn và Ngoại ngữ của kỳ thi lớp 10
a) Vùng 1: Bình quân 25 học sinh/lớp đối với cấp tiểu học; bình quân 35 học sinh/lớp đối với cấp trung học cơ sở và trung học phổ thông;
b) Vùng 2: Bình quân 30 học sinh/lớp đối với cấp tiểu học; bình quân 40 học sinh/lớp đối với cấp trung học cơ sở và trung học phổ thông;
c) Vùng 3: Bình quân 35 học sinh/lớp đối với cấp tiểu học; bình quân 45 học sinh/lớp đối với cấp trung học cơ sở và trung học phổ thông;
d) Số lượng học sinh/lớp học của trường phổ thông dân tộc nội trú, trường phổ thông chuyên thực hiện theo quy định về tổ chức và hoạt động.
Sự bất tiện xảy ra khi lấy số học sinh trung bình/lớp để tính chỉ tiêu biên chế giáo viên.
Nếu quy định số lượng học sinh theo vùng miền như vùng 1 không quá 25 học sinh/lớp đối với bậc tiểu học; không quá 35 học sinh/lớp đối với bậc trung học cơ sở và trung học phổ thông; hoặc vùng 3 không quá 35 học sinh/lớp đối với bậc tiểu học; 45 học sinh/lớp đối với bậc trung học cơ sở và trung học phổ thông; thì các cơ sở giáo dục cũng rất dễ dàng bố trí biên chế theo quy định.
Tuy nhiên, Thông tư 20/2023/TT-BGDĐT quy định số học sinh bình quân/lớp. Ví dụ, Vùng 2: Bình quân 30 học sinh/lớp đối với cấp tiểu học; bình quân 40 học sinh/lớp đối với cấp trung học cơ sở và trung học phổ thông;
Vùng 3: Trung bình 35 học sinh/lớp đối với cấp tiểu học; trung bình 45 học sinh/lớp đối với cấp trung học cơ sở và trung học phổ thông;
Ngoài ra, Khoản 3 Điều 3 quy định: Việc xác định số lượng học sinh/lớp được tính cụ thể cho từng cơ sở giáo dục, không theo đơn vị hành chính cấp xã, cấp huyện, cấp tỉnh xác định.
Do đó, các cơ sở giáo dục hiện nay đang áp dụng phương pháp tính tổng số học sinh toàn trường chia cho số học sinh trung bình của lớp theo khu vực để tính định mức giáo viên, gây ra nhiều bất tiện.
Xem thêm : Đề xuất đưa dạy thêm, học thêm vào danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện
Ví dụ, tổng số học sinh ở trường của một đồng nghiệp (một trường tiểu học ở khu vực 3) là 490. Trong đó, lớp 1: có 102 học sinh chia thành 3 lớp, mỗi lớp 34 học sinh; lớp 2: có 79 học sinh chia thành 3 lớp, gồm 1 lớp 27 học sinh, 2 lớp còn lại, mỗi lớp 26 học sinh; lớp 3: có 102 học sinh chia thành 3 lớp, mỗi lớp 34 học sinh; lớp 4: có 102 học sinh chia thành 3 lớp, mỗi lớp 34 học sinh; lớp 5: có 105 học sinh, chia thành 3 lớp, mỗi lớp 35 học sinh.
Tổng cộng trường có 15 lớp, tỷ lệ giáo viên là 1,5/lớp, do đó cần 22,5 giáo viên. Tuy nhiên, nếu tổng số học sinh trong trường (490) chia cho 35 học sinh/lớp, trường chỉ có 14 lớp, số giáo viên trong biên chế chỉ có 21, nhiều hơn 1,5 so với số lớp thực tế.
Nhà trường không thể thu hẹp sĩ số lớp xuống còn 14, nhưng vẫn phải có 15 lớp. Bởi vì, lớp 2 có 79 học sinh. Nếu chia thành 2 lớp, mỗi lớp 35 học sinh, sẽ có thêm 9 học sinh. Vậy 9 học sinh này sẽ đi đâu? Nếu chúng ta sắp xếp 1 lớp 40 học sinh và 1 lớp 39 học sinh, sẽ vượt quá 35 học sinh/lớp của trường tiểu học.
Vì số học sinh trung bình mỗi lớp là 35, về lý thuyết trường chỉ có 14 lớp và 21 giáo viên. Tuy nhiên, trên thực tế, trường vẫn phải sắp xếp 15 lớp vì không thể gộp 79 học sinh lớp 2 thành 2 lớp.
Như vậy, tổng số lớp học toàn trường vẫn là 15 lớp, cần 22,5 giáo viên, nhưng do sĩ số trung bình là 35 học sinh/lớp nên thực tế chỉ có 14 lớp với 21 giáo viên (trên lý thuyết). Do đó, giáo viên trong trường phải gánh thêm công việc cho 1,5 người còn thiếu do 2 cách tính.
Việc chia tổng số học sinh trong một trường cho số học sinh quy định để tính chỉ tiêu giáo viên của trường đang tạo ra vấn đề cho cả học sinh và giáo viên. Nếu thực hiện triệt để, sẽ có học sinh không thể học ở trường và giáo viên sẽ phải gánh vác công việc của các đồng nghiệp khác.
Tại Khoản 4 Điều 3, Thông tư 20/2023/TT-BGDĐT ghi chú: Trong trường hợp đặc biệt, số học sinh/lớp phải thấp hơn hoặc cao hơn mức bình quân chung của khu vực quy định tại Khoản 2 Điều này, UBND tỉnh quyết định số học sinh/lớp phù hợp với thực tế. Tuy nhiên, theo tìm hiểu của tác giả, nhiều trường vẫn đang triển khai như trường đồng nghiệp của tác giả nêu trên. Hy vọng, những bất cập nêu trên tại nhiều cơ sở giáo dục khi áp dụng Thông tư 20/2023/TT-BGDĐT Các quy định về phân vùng và số học sinh trung bình trên một lớp để tính chỉ tiêu giáo viên sẽ sớm được bãi bỏ.
Phong cách viết và nội dung của bài viết phản ánh quan điểm và góc nhìn của tác giả.
Đỗ quyên
https://giaoduc.net.vn/bat-cap-khi-lay-binh-quan-hoc-sinhlop-de-tinh-dinh-muc-bien-che-giao-vien-post245080.gd
Nguồn: https://truonglehongphong.edu.vn
Danh mục: Giáo Dục