Mới đây, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã công bố dự thảo Thông tư sửa đổi Thông tư số 04/2016/TT-BGDĐT ngày 14/3/2016 quy định về kiểm định chương trình đào tạo trình độ đại học, cao đẳng (Thông tư 04) và thay thế các Thông tư liên quan để lấy ý kiến đóng góp.
Đặc biệt, việc bổ sung mức “thành tích có điều kiện” vào kết quả đánh giá chất lượng chương trình đào tạo, đề xuất bổ sung tiêu chí có điều kiện làm tiêu chí bắt buộc để chương trình đào tạo đạt chuẩn chất lượng,… là những điểm mới đáng chú ý trong dự thảo.
Bạn đang xem: Dự thảo kiểm định CTĐT: 18 tháng để cải tiến chất lượng là dài hay ngắn?
Nhiều ý kiến bày tỏ sự đồng tình và đánh giá cao những điểm mới trong dự thảo.
Minh họa: Sinh viên trường Đại học Công nghệ TP.HCM (HUTECH)
Bản dự thảo mới đã khắc phục được sự chồng chéo trong bộ tiêu chuẩn đánh giá hiện tại.
Đánh giá về dự thảo mới, chia sẻ với phóng viên Tạp chí Giáo dục điện tử Việt Nam, Nhà giáo Ưu tú, TS. Nguyễn Kim Dung – Viện trưởng Viện Khoa học Giáo dục Nam Việt cho biết:
“Dự thảo Thông tư sửa đổi Thông tư số 04/2016/TT-BGDĐT được áp dụng từ bộ tiêu chuẩn đánh giá của Tổ chức đảm bảo chất lượng của Mạng lưới các trường đại học Đông Nam Á (AUN-QA). Tuy nhiên, phương pháp và cách thức đánh giá đang được cải tiến, áp dụng kinh nghiệm của nhiều tổ chức kiểm định quốc tế, đặc biệt là các trung tâm kiểm định từ Châu Âu, Châu Mỹ…
Đây là một trong những nỗ lực lớn của Bộ Giáo dục và Đào tạo nhằm nâng cao chất lượng đánh giá chất lượng giáo dục trong nước, vừa phù hợp với điều kiện Việt Nam, vừa đảm bảo hội nhập quốc tế và khu vực.
Cùng quan điểm, Trưởng phòng Khảo thí và Đảm bảo chất lượng của một trường đại học phía Nam cũng đánh giá cao những điểm mới trong dự thảo.
Theo Vụ trưởng Vụ, dự thảo Thông tư quy định về đánh giá chất lượng chương trình đào tạo các trình độ giáo dục đại học có nhiều điểm mới, tiến bộ, khắc phục tình trạng chồng chéo tiêu chuẩn, tiêu chí trong bộ tiêu chuẩn đánh giá hiện hành, tạo sự thuận lợi lớn cho các cơ sở giáo dục đại học.
Dòng thời gian cải tiến chất lượng: Nên là 18 tháng hay 24 tháng?
Nhà giáo ưu tú, TS. Nguyễn Kim Dung – Viện trưởng Viện Khoa học Giáo dục Nam Việt. Ảnh: Học viện Ngân hàng
Một trong những điểm mới đáng chú ý là dự thảo đã bổ sung mức đánh giá “thành tích có điều kiện” – cho phép các cơ sở có tới 18 tháng để cải thiện chất lượng đối với một số tiêu chuẩn và tiêu chí chưa đáp ứng yêu cầu kiểm tra.
TS Nguyễn Kim Dung cho biết, thực tế các trung tâm đánh giá chất lượng giáo dục đã thực hiện bước này trước đây, nhưng chưa được thể hiện rõ. Với thời hạn 18 tháng quy định trong dự thảo, các chuyên gia đánh giá đây là khoảng thời gian phù hợp để các cơ sở đào tạo nâng cao chất lượng một số tiêu chuẩn, tiêu chí còn chưa đáp ứng yêu cầu.
Xem thêm : Những chính sách về lương, phụ cấp trong dự thảo Luật Nhà giáo mới nhất
Ngoài ra, đối với các chương trình đào tạo được đánh giá đạt yêu cầu từ chu kỳ II trở đi và có kết quả cải tiến chất lượng đáp ứng yêu cầu theo kết quả đánh giá ở chu kỳ trước, kỳ đánh giá chất lượng tiếp theo đối với chương trình đào tạo là 7 năm – kéo dài thêm 2 năm so với quy định hiện hành (5 năm). TS Nguyễn Kim Dung đánh giá đây là sự điều chỉnh hợp lý, thể hiện sự ghi nhận những nỗ lực, cố gắng của nhà trường trong công tác đảm bảo chất lượng.
TS. Lê Phương Trường – Trưởng phòng Khảo thí và Đảm bảo chất lượng, Trường Đại học Lạc Hồng
Cùng quan điểm, TS Lê Phương Trường – Trưởng phòng Khảo thí và Đảm bảo chất lượng, Trường Đại học Lạc Hồng cũng đánh giá việc cho các trường 18 tháng để cải thiện chất lượng là chính sách nhân văn, tiết kiệm và phù hợp với xu hướng quốc tế.
Cụ thể, TS Lê Phương Trường phân tích, quá trình cải tiến chất lượng tại các trường đại học là một quá trình liên tục, được chia thành nhiều mảng khác nhau, từ kế hoạch cải tiến nhỏ, cần ít nguồn lực đến kế hoạch lớn, cần nhiều nguồn lực hơn.
“Do đó, việc nâng cao chuẩn mực để đạt được mức “thành tích có điều kiện” đối với các cơ sở giáo dục là một bước đi hợp lý. Kết quả đánh giá “thành tích có điều kiện” thường phụ thuộc vào các nhóm đánh giá.
Ví dụ, chương trình đào tạo có thể cần bổ sung thêm các môn học liên quan đến chuyên ngành, hoặc chuẩn đầu ra chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu của các bên liên quan; đây là những yếu tố mà các cơ sở giáo dục có thể cải thiện trong thời gian ngắn.
Bên cạnh đó, việc tạo điều kiện cho các cơ sở giáo dục nâng cao chất lượng là chính sách nhân văn, tiết kiệm, phù hợp với xu hướng của các tổ chức kiểm định quốc tế, thể hiện sự hội nhập của Bộ Giáo dục và Đào tạo”, TS Lê Phương Trường bình luận.
Tuy nhiên, với thời hạn 18 tháng, vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Một số ý kiến cho rằng thời hạn 18 tháng để nâng cao chất lượng từ gần đạt đến đạt là quá ngắn, dẫn đến tình trạng các cơ sở giáo dục đại học liên tục trong tình trạng nộp báo cáo, gây lãng phí và tốn kém.
Trưởng phòng Khảo thí và Đảm bảo chất lượng, Trường Đại học Lạc Hồng đánh giá, khoảng thời gian 18 tháng để nâng cao chất lượng từ “gần đạt yêu cầu” lên “đạt yêu cầu” có thể là thách thức đối với nhiều cơ sở giáo dục đại học, đặc biệt là những cơ sở có nguồn lực hạn chế.
Tuy nhiên, Trưởng phòng cũng cho rằng, 18 tháng là thời gian đủ để các cơ sở giáo dục có cơ hội thực hiện những cải tiến cần thiết trong thời gian ngắn, tránh phải làm lại quy trình kiểm định, qua đó giảm thiểu lãng phí.
“Đối với các cơ sở giáo dục có đủ nguồn lực, 18 tháng không phải là quá khó khăn, mà ngược lại, đó là cơ hội để thúc đẩy cải thiện chất lượng toàn diện. Những cải thiện có thể được thực hiện trong thời gian ngắn sẽ giúp các cơ sở giáo dục đạt được các tiêu chuẩn kiểm định, từ đó củng cố uy tín của mình.
Ngoài ra, nếu các giám định viên thấy rằng các điểm cải tiến không thể thực hiện được trong thời hạn 18 tháng, họ nên mạnh dạn đánh giá là không đạt. Điều này đảm bảo rằng chỉ những cơ sở giáo dục thực sự đạt chuẩn chất lượng mới được công nhận, tránh làm mất giá trị của quá trình công nhận”, TS. Lê Phương Trường đề xuất.
Trong khi đó, Trưởng phòng Khảo thí và Đảm bảo chất lượng của một trường đại học phía Nam đề xuất có thể kéo dài thời gian cải tiến chất lượng từ 18 tháng lên 24 tháng (tức là 2 năm) để tạo điều kiện cho các trường có nguồn lực hạn chế.
“Có những cải tiến trường học có thể hoàn thành trong thời gian rất ngắn, chẳng hạn như chỉ 1 đến 2 tuần. Nhưng cũng có những hạn chế không thể giải quyết trong thời gian ngắn và đòi hỏi nguồn ngân sách lớn để thực hiện những cải tiến được đề xuất.
Do đó, tôi nghĩ có thể kéo dài thời gian cải thiện lên 2 năm để các trường có đủ thời gian hoàn thiện các khuyến nghị về cải thiện chất lượng”, ông nói.
Xem thêm : Trường đại học không được đặt ra các yêu cầu gây phiền hà cho thí sinh
10 tiêu chí, điều kiện – bước ngoặt lớn trong nâng cao chất lượng kiểm định
Ngoài ra, một điểm mới đáng chú ý nữa trong dự thảo là việc bổ sung quy định về tiêu chuẩn, điều kiện. Theo đó, bộ tiêu chuẩn mới để đánh giá chương trình đào tạo dự kiến sẽ bổ sung thêm 10 tiêu chuẩn, điều kiện, là những tiêu chuẩn bắt buộc để chương trình đào tạo đạt chuẩn chất lượng.
Giám đốc Nguyễn Kim Dung đánh giá đây là sự thay đổi khá hợp lý, giúp các trường có ý thức và nghiêm túc hơn trong việc nâng cao chất lượng chương trình đào tạo.
“Việc có thêm quy định về tiêu chuẩn, điều kiện sẽ tạo sự phân hóa cao hơn trong đánh giá, khuyến khích các trường nghiêm túc hơn, nỗ lực hơn, toàn diện hơn trong việc đảm bảo chất lượng chương trình đào tạo.
10 tiêu chí, điều kiện trên cho thấy bước ngoặt lớn trong việc nâng cao chất lượng thanh tra ở nước ta”, chuyên gia này cho biết.
Cũng đánh giá đây là một cải thiện tích cực, TS Lê Phương Trường chia sẻ rằng, trong giai đoạn đầu khi các cơ sở giáo dục mới tham gia kiểm định chất lượng, việc không đặt ra các điều kiện bắt buộc là hợp lý. Tuy nhiên, hiện nay khi các cơ sở giáo dục đã xây dựng được văn hóa chất lượng và hoạt động đảm bảo chất lượng đã trở thành một phần thiết yếu của giáo dục đại học, việc đặt ra các điều kiện bắt buộc là cần thiết.
“Hơn nữa, theo kinh nghiệm của Trường Đại học Lạc Hồng khi tham gia kiểm định của các tổ chức kiểm định quốc tế, cụ thể là ABET, họ quy định nếu chương trình nào không đáp ứng bất kỳ tiêu chí kiểm định nào của ABET thì chương trình đó sẽ không được công nhận kiểm định.
Do đó, tôi cho rằng việc áp dụng 10 tiêu chí này là bước tiến tích cực, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, bảo đảm các cơ sở giáo dục đủ điều kiện phải đáp ứng đầy đủ các tiêu chí tối thiểu đã đề ra. Tuy nhiên, việc xác định các tiêu chí tối thiểu này có phù hợp với bối cảnh hiện tại của Việt Nam hay không là trách nhiệm của nhóm chuyên gia biên soạn bộ tiêu chuẩn”, Trưởng phòng bày tỏ.
Ngoài ra, góp ý thêm vào dự thảo, TS Lê Phương Trường cho rằng, các hướng dẫn đánh giá chất lượng chương trình đào tạo, nhất là phần “Yêu cầu về tiêu chí” hiện nay mới chỉ tập trung phân chia nội dung tiêu chí.
Theo đó, Trưởng khoa đề xuất các chuyên gia cần mở rộng thêm để tạo điều kiện cho các cơ sở giáo dục. Ví dụ, tiêu chí 1.2 có nội dung “Chuẩn đầu ra được xác định rõ ràng” nhưng việc xác định này khá thách thức. Nếu sử dụng thang đo mức độ nhận thức của Bloom để xây dựng chuẩn đầu ra thì phù hợp để xác định kiến thức, kỹ năng, nhưng với chuẩn đầu ra về tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm thì các cơ sở giáo dục vẫn đang gặp khó khăn.
Dự thảo Thông tư sửa đổi đã tích hợp hướng dẫn bổ sung về đánh giá tiêu chí (Phụ lục I) – dựa trên các nguyên tắc và định hướng PDCA. Hướng dẫn không đưa ra các yêu cầu định lượng liên quan đến 'có bằng chứng' để hạn chế việc đối phó trong quá trình tạo bằng chứng cung cấp cho nhóm đánh giá bên ngoài.
Theo TS Lê Phương Trường, PDCA là một trong những nguyên tắc cơ bản của đảm bảo chất lượng. Việc quy định bằng chứng định lượng cứng nhắc dễ dẫn đến tình huống tiêu cực. Đối với những kiểm toán viên có kinh nghiệm, không khó để phát hiện ra bằng chứng chỉ là cơ chế đối phó, tuy nhiên, nếu các cơ sở giáo dục cung cấp bằng chứng này, họ vẫn được coi là đã hoàn thành các tiêu chí.
“Khi áp dụng nguyên tắc và định hướng PDCA trong xây dựng đánh giá, tôi thực sự đánh giá cao sự cải tiến này của bộ tiêu chuẩn mới. Đánh giá các chương trình đào tạo theo nguyên tắc này cho phép người đánh giá dựa vào kinh nghiệm của mình để xác định và đưa ra các đánh giá và đề xuất, giúp chương trình cải thiện hiệu quả”, chuyên gia bày tỏ sự đánh giá cao của mình đối với những thay đổi mới trong dự thảo.
Đoàn Nhân
https://giaoduc.net.vn/du-thao-kiem-dinh-ctdt-18-thang-de-cai-tien-chat-luong-la-dai-hay-ngan-post245452.gd
Nguồn: https://truonglehongphong.edu.vn
Danh mục: Giáo Dục
This post was last modified on %s = human-readable time difference 7:25 sáng
Trại sinh viên trường Đại học Bách khoa Hà Nội. Ảnh: Đại học Bách khoa…
Anh Tim cho biết, trước khi làm huấn luyện viên thể hình, anh từng làm…
Bệnh nhân tiểu đường có ăn được cá hồi không?Cá hồi, một loại thực phẩm…
Xiaomi đã âm thầm tung ra bản cập nhật HyperOS 2 mới nhất. Công ty…
Đau thắt ngực là tình trạng tương đối phổ biến, là tình trạng đau ngực…
Nguyên nhân gây viêm loét đại tràng và chảy máu Nguyên nhân gây chảy máu…