- 9 thầy cô của Trường Đại học Sư phạm- Đại học Thái Nguyên đạt chuẩn PGS năm 2024
- ĐH Công đoàn bế giảng lớp Lý luận và nghiệp vụ công tác công đoàn cho cán bộ Lào
- Trường ĐH Điện lực công bố điểm chuẩn năm 2024, cao nhất 24 điểm
- ĐHQG TPHCM phấn đấu đến năm 2045 sẽ đào tạo 20.000 cử nhân, kỹ sư về CNTT, AI
- Giám đốc Sở GDĐT công nhận trường chuẩn quốc gia sẽ giúp giảm thủ tục hành chính
“Triết lý giáo dục Việt Nam: Từ truyền thống đến hiện đại” là kết quả công trình nghiên cứu khoa học cấp nhà nước của nhóm tác giả gồm 13 thành viên do Giáo sư, Tiến sĩ Trần Ngọc Thêm làm chủ biên. Với ý nghĩa và giá trị của đề tài, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam đã lựa chọn xuất bản tác phẩm này để bổ sung vào kho tàng sách tham khảo chất lượng cao.
Bạn đang xem: Triết lý giáo dục Việt Nam: Từ truyền thống đến hiện đại
Xuất phát từ sự quan tâm đến khái niệm “triết lý giáo dục” ở Việt Nam trong 20 năm qua, nhiều quan điểm về triết lý giáo dục nước nhà đã được hình thành. Tuy nhiên, những quan điểm này chưa thực sự có tính hệ thống, còn mang nặng tính cảm tính, thiếu cơ sở khoa học nên chưa có sự thống nhất, thuyết phục.
Để giải quyết triệt để vấn đề này, nhóm nghiên cứu đã bỏ nhiều công sức nghiên cứu và đưa ra chiến lược 5 bước với cách tiếp cận theo chiều ngang, chiều dọc và chiều sâu đối tượng của triết lý giáo dục.
Sách gồm các chương: Cơ sở lý luận của triết lý giáo dục; triết lý giáo dục ở Tây và Đông Bắc Á; triết lý giáo dục truyền thống Việt Nam; những biến động trong triết lý giáo dục Việt Nam thời kỳ đổi mới và hội nhập; Mô hình triết lý giáo dục Việt Nam định hướng cho những thập kỷ tới
Xem thêm : Hà Nội trao thưởng 70 ca khúc thi “Sáng tác ca khúc dành cho học sinh”
Cơ sở lý luận của nghiên cứu dựa trên triết lý giáo dục nhìn từ bên ngoài và bên trong. Từ góc độ bên ngoài, cần làm rõ sự khác biệt giữa triết lý giáo dục và triết lý giáo dục, triết lý giáo dục và trí tuệ giáo dục, đồng thời phân tích ba yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến triết học. Nguyên tắc giáo dục là chính trị, kinh tế và văn hóa. Nhìn từ góc độ nội tại, triết lý giáo dục được coi là một hệ tư tưởng giáo dục bao trùm các yếu tố khác.
Với sáu yếu tố: Sứ mệnh, mục tiêu, nguyên tắc, giá trị cốt lõi của văn hóa giáo dục, yêu cầu về nội dung và yêu cầu về phương pháp luận, tạo nên một hệ thống ba tầng triết lý giáo dục (cấu trúc). cấu trúc tối thiểu, cấu trúc cơ bản, cấu trúc mở rộng). Từ cấu trúc trên, tác giả đã đề xuất mô hình vận dụng triết lý giáo dục theo loại hình văn hóa. Mặc dù kết hợp đồng thời nhiều phương pháp nghiên cứu nhưng công trình ưu tiên sử dụng phương pháp luận Mác-xít, phương pháp luận thực chứng và cách tiếp cận toàn diện. Ngoài ra, đồ án còn sử dụng hệ thống dịch – hệ thống – typology.
Để so sánh với văn hóa Việt Nam, nhóm nghiên cứu đã nghiên cứu triết lý giáo dục phương Tây và Đông Bắc Á. Văn hóa phương Tây bắt nguồn từ việc săn bắn và chăn nuôi du mục nên năng động và tượng trưng cho sự tích cực. Điều đó thể hiện sự tôn trọng sức mạnh và tính hướng ngoại, xã hội đề cao vai trò của cá nhân và tôn trọng lý trí trên nền tảng tư duy phân tích.
Đánh giá cao lẽ phải là tiền đề cho sự phát triển của khoa học tạo nên nền văn minh. Nền giáo dục phương Tây bắt đầu với sứ mệnh giáo dục theo mô hình II (xây dựng xã hội phát triển + phục vụ nhu cầu xã hội) thời Hy Lạp-La Mã cổ đại với mục tiêu đào tạo sự kết hợp của ba loại người. về cơ bản là người làm, người suy nghĩ và người sáng tạo. Từ thời Phục hưng, sứ mệnh giáo dục có xu hướng đào tạo theo mô hình III (xây dựng xã hội phát triển + chăm sóc nhu cầu cá nhân) hướng tới mục tiêu đào tạo những nhà tư tưởng và sáng tạo.
Văn hóa Đông Bắc Á thuộc loại văn hóa trung gian (cả tiêu cực và tích cực) trong đó Nhật Bản và Hàn Quốc là đại diện. Các nước trong khu vực đều hướng đến xây dựng xã hội ổn định, phát triển nên sứ mệnh giáo dục cũng theo mô hình II. Mục tiêu của giáo dục phong kiến ở các nước chịu ảnh hưởng Nho giáo là đào tạo quân tử (điều hành), sau khi chế độ phong kiến sụp đổ, quá trình này chuyển sang đào tạo các nhà tư tưởng (quyết tâm). hướng) và đạt được mục tiêu đào tạo Người sáng tạo. Giáo dục góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội nhưng có hạn chế là người học luôn chịu nhiều áp lực.
Dựa trên cơ sở lý luận và bài học được xây dựng và triển khai ở các nước, các tác giả đã đi sâu phân chia giáo dục ở Việt Nam từ thời Văn Lang – Âu Lạc đến nay thành 6 thời kỳ với hai giai đoạn: Truyền thống và hiện tại.
Xem thêm : Quận Ba Đình tặng quà 123 học sinh bị ảnh hưởng bởi bão
Trong thời kỳ truyền thống, với nền kinh tế lúa nước và nền văn hóa ổn định, triết lý giáo dục Việt Nam có mục tiêu chính là đào tạo học trò. So với mục tiêu thực tế là ghi nhớ bài học, thi đỗ, lấy bằng, ngoan ngoãn, vâng lời thì nhìn chung, triết lý giáo dục Việt Nam thời kỳ này đã thành công.
Trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế từ năm 1986 đến nay, nền kinh tế chuyển đổi từ chế độ bao cấp bao cấp sang kinh tế thị trường, hệ thống giá trị văn hóa truyền thống đang trong quá trình chuyển đổi xã hội chủ nghĩa. đến hệ giá trị trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Sự biến đổi này đã tạo nên sự đan xen, mâu thuẫn giữa các giá trị văn hóa cũ và mới. Triết lý giáo dục Việt Nam cũng bị ảnh hưởng bởi những yếu tố này, dẫn đến sứ mạng, mục tiêu giáo dục trên thực tế không được như mong đợi. Các tác giả đã phân tích, đánh giá sâu sắc thực trạng chung và chỉ ra nguyên nhân sâu xa của những bất cập lâu nay của ngành Giáo dục.
Trên cơ sở phân tích khoa học, khách quan với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nhóm nghiên cứu đã đề xuất một mô hình triết lý giáo dục Việt Nam định hướng cho những thập kỷ tới. Mô hình có đặc điểm là sự chuyển dịch mạnh mẽ từ mô hình sứ mệnh giáo dục II sang mô hình sứ mệnh giáo dục III; Tuân thủ cao các văn bản pháp luật hiện hành nhưng cũng đề xuất điều chỉnh những điểm chưa hợp lý, chưa đầy đủ; kế thừa ở mức độ cao những tư tưởng tích cực của triết lý giáo dục truyền thống và hiện đại của Việt Nam.
Với mô hình định hướng tổng thể, ngoài việc bổ sung những nội dung mới về mục tiêu, nguyên tắc, nội dung đáp ứng yêu cầu của thời đại, mô hình còn chú trọng vào phương pháp lấy người học và vừa học vừa làm. Trung tâm được đặt trong mối quan hệ với ba môi trường “Nhà trường – Gia đình – Xã hội”. Với mô hình theo định hướng bộ môn, tác giả đưa ra những đề xuất cụ thể về mục tiêu cho từng hệ thống, cấp học.
Có thể thấy, “Triết lý giáo dục Việt Nam: Từ truyền thống đến hiện đại” đã cung cấp cơ sở khoa học khá toàn diện cho triết lý giáo dục, làm cơ sở để các cơ sở giáo dục, đào tạo vận dụng. Xây dựng triết lý giáo dục phù hợp với điều kiện, nhu cầu giáo dục cụ thể của đơn vị, đồng thời mở ra những hướng mới trong nghiên cứu triết học và triết học giáo dục, góp phần xây dựng nền tảng triết học. Giáo dục Việt Nam và những đóng góp cho việc nghiên cứu triết lý giáo dục giới của thế giới.
https://hanoimoi.vn/triet-ly-giao-duc-viet-nam-tu-truyen-thong-den-hien-dai-688881.html
Nguồn: http://truonglehongphong.edu.vn
Danh mục: Giáo Dục